Báo Đồng Nai điện tử
En

Quốc khánh 2-9: Cột mốc lịch sử vĩ đại của dân tộc

TS Vũ Trung Kiên
09:43, 31/08/2023

78 năm trước, ngày 2-9-1945, giữa Quảng trường Ba Đình lịch sử vang lên lời Tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.

Bác Hồ đọc bản Tuyên ngôn độc lập tại Quảng trường Ba Đình ngày 2-9-1945. Ảnh: TL
Bác Hồ đọc bản Tuyên ngôn độc lập tại Quảng trường Ba Đình ngày 2-9-1945. Ảnh: TL

* Xin chào cách mạng thành công

Năm 1945, chàng thanh niên 19 tuổi, sau này là người lãnh đạo có uy tín và từng lãnh trọng trách người đứng đầu TP.Sài Gòn - Gia Định một số thời kỳ, nhà thơ Hưởng Triều (Trần Bạch Đằng) đã cảm xúc về ngày độc lập của dân tộc: “Xin chào cách mạng thành công/ Sài Gòn như ngọn thác hồng đổ xuôi/ Ngàn năm có một ngày vui/ Đùng đùng chuyển đất rung trời là đây/ Lưng chừng Thủ Ngữ cờ bay/ Miệng reo mà tưởng đang say mơ màng/ Nước này tên nước Việt Nam/ Chạy từ cửa ải Nam Quan chạy vào/ Cờ này nền đỏ vàng sao/ Là cờ độc lập, tự hào, tự do…” (Chào cách mạng).

Trong suốt lịch sử mấy ngàn năm của dân tộc, cha ông chúng ta đã bao lần phải đứng lên chống ngoại xâm, giành độc lập cho Tổ quốc. Có lẽ vì vậy mà dân tộc Việt Nam có rất nhiều bản hùng ca. Chúng ta vẫn nghe văng vẳng đâu đây những khúc ca khải hoàn ấy. Đó là bản hùng ca của ngày chiến thắng quân Nguyên xâm lược: “Xã tắc hai phen chồn ngựa đá/ Non sông nghìn thuở vững âu vàng” (Trần Nhân Tông). Hay “Xã tắc từ đây vững bền/ Giang sơn từ đây đổi mới” (Nguyễn Trãi - Bình Ngô đại cáo”… Hẳn nhiên, thắng lợi càng nhiều thì khổ đau càng lớn, thế nhưng khát vọng lớn nhất của dân tộc Việt Nam vẫn là khát vọng hòa bình, vậy nên “Dẫu thân mình có phải hy sinh/ Cũng chỉ vì trường xuân cho đất Việt” (Phạm Thị Xuân Khải - Mùa xuân nhớ Bác).

Trong lịch sử hàng ngàn năm, dân tộc Việt Nam đã viết nên những trang sử vàng trong sự nghiệp chống ngoại xâm, giành độc lập dân tộc và xây dựng đất nước. Đó là những Bạch Đằng, Chi Lăng, Xương Giang, Đống Đa… Trong những trang sử huy hoàng, vĩ đại ấy, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa là trang sử vẻ vang nhất, là sự kiện trọng đại nhất trong lịch sử đấu tranh dựng nước, giữ nước của dân tộc.

Nửa cuối thế kỷ XIX, nước Việt Nam đang yên lành bỗng một cơn gió lạ từ đâu thổi tới mang theo mùi khói súng khét lẹt: “Một xã hội suốt mấy nghìn năm kéo dài một cuộc sống gần như không thay đổi, về hình thức cũng như về tinh thần… Nhưng, nhất đán, một cơn gió mạnh bỗng từ xa thổi đến. Cả nền tảng xưa bị một phen điên đảo, lung lay. Sự gặp gỡ phương Tây là cuộc biến thiên lớn nhất trong lịch sử Việt Nam từ mấy mươi thế kỷ” (Hoài Thanh, Hoài Chân - Thi nhân Việt Nam).

Năm 1858, thực dân Pháp xâm lược Việt Nam. Năm 1884, với Hòa ước Patenôtre, nước Việt Nam hoàn toàn nằm trong tay người Pháp đô hộ. Sĩ khí của bao lớp cha ông anh hùng làm sao chống nổi vũ khí tối tân của quân thù. Thế rồi lớp vào tù, lớp ra pháp trường ròng rã hơn 80 năm, hơn 80 năm là hơn 4 thế hệ. Còn nỗi đau, nỗi nhục nào lớn hơn.

Vì những khổ đau chất chứa hơn 80 năm ấy nên ngày 2-9-1945, cả dân tộc đã mừng vui đón chào ngày độc lập. Cũng giống như nhà thơ Hưởng Triều, một nhà cách mạng lớn ở Sài Gòn, ở Nam bộ là Nguyễn Văn Nguyễn, Ủy viên Xứ ủy Nam bộ đã cảm tác về ngày vui đặc biệt này: “Dưới cảnh trời lộng mây, làn sóng triệu triệu người cuồn cuộn chảy vào đô thị. Chiến tranh vừa chấm dứt. Nhân loại thở hồi dài. Người nô lệ đi ra đường. Cỏ cây, đất nước được giải phóng. Một tác phẩm xuất hiện. Không phải công trình vô vi của anh hùng cô độc. Một tác phẩm của nhân dân, làm bằng máu thịt của nhân dân, anh hùng là nhân dân”.

* “Lấy làm vui được làm dân một nước độc lập”

Ngày 30-8-1945, trong Chiếu thoái vị để trao quyền cho Chính phủ dân chủ cộng hòa, vua Bảo Đại đã viết: “Riêng Trẫm trong 20 năm ngai vàng bệ ngọc, đã biết bao lần ngậm đắng nuốt cay. Từ nay Trẫm lấy làm vui được làm dân một nước độc lập, quyết không để ai lợi dụng danh nghĩa của Trẫm hay danh nghĩa của hoàng gia mà lung lạc quốc dân nữa”.

Tuyên ngôn độc lập - bản được lưu hành ở Hà Nội ngay sau ngày 2-9-1945. Ảnh: TL
Tuyên ngôn độc lập - bản được lưu hành ở Hà Nội ngay sau ngày 2-9-1945. Ảnh: TL

Lâu nay, cứ đến ngày này, lại xuất hiện những bài viết xuyên tạc với dụng ý xấu, trong đó có quan điểm cho rằng không cần có cuộc Cách mạng Tháng Tám rồi Việt Nam cũng sẽ giành được độc lập. Đó không chỉ là những luận điệu xuyên tạc mà còn vô ơn đối với các thế hệ cha ông. Hãy nhìn lại lịch sử Việt Nam kể từ khi thực dân Pháp đô hộ, họ đã làm gì cho đất nước chúng ta. Xin đừng kể cầu Long Biên, cầu Trường Tiền, cầu Bình Lợi, xin đừng kể đường sắt Bắc - Nam… Lịch sử luôn luôn vận động, biến đổi không ngừng theo chiều hướng tiến bộ và sự vật sau bao giờ cũng hoàn thiện hơn sự vật trước, đó là lẽ thường. Hơn 80 năm đô hộ, nếu thực dân Pháp chỉ làm được từng ấy cho Việt Nam, thử hỏi có đáng được ngợi ca? Đó là chưa kể, trong từng sự việc cụ thể đều có những câu chuyện riêng lắt léo ẩn sau đó. Tất cả các công trình được xem là công lao của thực dân Pháp nêu trên được xây dựng dưới thời Toàn quyền Paul Doumer (1897-1902).

Một học giả đất Nam bộ là Vương Hồng Sển, người từng làm Thư ký Phủ Thống đốc Nam kỳ, người tuyên bố đã biết gần đủ mặt các Toàn quyền, Thống đốc của người Pháp, trong tác phẩm Dỡ mắm cho rằng, trong tất cả những vị toàn quyền Đông Dương, ông đều “bốc… xong đi rửa tay”, chỉ riêng một người ông “bốc thơm”, đó là Toàn quyền Paul Doumer. Vậy, với những công trình nêu trên mà thực dân Pháp làm cho Việt Nam chẳng qua cũng nhờ đức tính tốt của quan Toàn quyền Paul Doumer chứ đâu phải chủ trương chung của chính phủ thực dân khi ấy?

“Thuở nô lệ thân ta nước mất/ Cảnh cơ hàn, trời đất tối tăm/ Một đời đau suốt trăm năm/ Chim treo trên lửa cá nằm dưới dao/ Giặc cướp hết non cao biển rộng/ Cướp cả tên nòi giống tổ tiên/ Lưỡi gươm cắt đất ngăn miền/ Núi sông một khúc ruột liền chia ba” (Tố Hữu). Đó là tình cảnh của dân tộc Việt Nam khi mất nước. Hơn 80 năm đô hộ, thực dân Pháp đã làm gì cho dân tộc chúng ta? Họ đã đẩy biết bao người Việt thành những anh Pha, chị Dậu, lão Hạc…

Trong Tuyên ngôn độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu. Chúng ràng buộc dư luận, thi hành chính sách ngu dân. Chúng dùng thuốc phiện, rượu cồn để làm cho nòi giống ta suy nhược…”.

Đó là tình cảnh của nhân dân Việt Nam “được” cai trị bởi những nhà “khai sáng văn minh” đến từ đất nước đã ra đời câu tuyên ngôn nổi tiếng “Tự do - bình đẳng - bác ái”. Tự xưng là bảo hộ nước Việt Nam, tự xưng là nước “mẹ” đại Pháp, vậy mà ngày 9-3-1945, sau tiếng súng đảo chính của phát xít Nhật, “mẹ” đã chạy dài để rồi sau đó quay trở lại cấu kết với phát xít Nhật bóc lột dân ta. Thảm họa hơn 2 triệu đồng bào Việt Nam chết đói cuối năm 1944, đầu năm 1945 là tội ác mà “trời không dung, đất không tha”.

Thậm chí, Tổng trưởng Nội các Đế quốc Việt Nam là Trần Trọng Kim (Chính phủ Trần Trọng Kim) trong hồi ký Một cơn gió bụi đã than phiền rằng, mặc dù làm Thủ tướng nhưng ông cũng không có toàn quyền quyết định mà đều phải xin ý kiến quyết định từ người Nhật. Chính cụ Trần Trọng Kim đã nhìn ra bản chất thật của phát xít Nhật nên đã viết trong hồi ký: “Người Nhật tuy dùng khẩu hiệu “đồng minh cộng nhục” và lấy danh nghĩa “giải phóng các dân tộc bị hà hiếp” nhưng thâm ý là muốn thu hết quyền lợi về mình”.

* Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập

Không phải sau ngày 2-9-1945, người Pháp đã chịu công nhận nền độc lập của Việt Nam. Sài Gòn và Nam bộ chỉ được hưởng nền độc lập đúng 21 ngày để rồi cả miền Nam, cả dân tộc lại bước vào cuộc chiến đấu mới. Thực dân Pháp vẫn âm mưu quay trở lại đô hộ Việt Nam một lần nữa và họ đã dựng lên chính phủ với tên gọi là “Nam Kỳ quốc” với Thủ tướng là bác sĩ Nguyễn Văn Thinh.

Và đây là những dòng trong hồi ký của nhà báo Nam Đình, Đổng lý Văn phòng Bộ Tư pháp Chính phủ Trần Trọng Kim: “Chính phủ Thinh không hoạt động được gì, vì Pháp không cho họ một chút quyền nào. Còn các bộ trưởng thì lại là… bù nhìn của 2 người Pháp làm đổng lý văn phòng và chủ sự! Mọi việc gì cũng do đổng lý và chủ sự Pháp định đoạt (…). Thậm chí, muốn xin một cây súng lục cho đổng lý văn phòng, bác sĩ Thinh phải tự mình đến bót mật thám ở Catinat mà xin và phải ngồi chờ chủ sự Pháp, cũng như thường dân đi xin giấy tờ vậy! Thương hại thay!”. Rất may, biết mình bị lừa và lợi dụng, bác sĩ Nguyễn Văn Thinh sau đó đã thắt cổ tự tử.

Tiếp nối truyền thống, khát vọng và quyết tâm của cha ông, ngày 2-9-1945, trong Tuyên ngôn độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.

TS Vũ Trung Kiên


Thượng tướng, Viện sĩ, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân NGUYỄN HUY HIỆU, nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng:

Tiếp tục phát huy bài học về đại đoàn kết toàn dân

 

Cách mạng Tháng Tám thành công, Quốc khánh 2-9 đưa tới sự ra đời của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày nay) có ý nghĩa quan trọng và để lại cho chúng ta nhiều bài học quý. Với tôi, bài học về sự đoàn kết toàn dân khiến tôi suy nghĩ nhiều nhất. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng dạy: “Dễ trăm lần không dân cũng chịu/ Khó vạn lần dân liệu cũng xong”; nhắc lại lời Bác thêm một lần nữa khẳng định sức mạnh của lòng dân…

Thực tế lịch sử dân tộc đã chứng minh, Việt Nam đã đánh thắng nhiều trận lớn như: Điện Biên Phủ (năm 1954), Điện Biên Phủ trên không (năm 1972), Chiến dịch Hồ Chí Minh (năm 1975)… Đó chính là đỉnh cao của nghệ thuật quân sự Việt Nam, nghệ thuật chiến tranh nhân dân, truyền thống quật cường Việt Nam “Đem đại nghĩa để thắng hung tàn/ Lấy trí nhân để thay cường bạo”.

Đại tá HUỲNH CÔNG PHÚC, Phó chủ tịch Hội Cựu chiến binh tỉnh:

Tăng cường giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ

 

Với những cựu chiến binh từng trải qua các cuộc kháng chiến bảo vệ độc lập của Tổ quốc, ngày Quốc khánh là ngày thiêng liêng. Do đó, trong giai đoạn hiện nay, mỗi cán bộ, hội viên cựu chiến binh phải tiếp tục kế thừa xứng đáng truyền thống dân tộc, tinh thần Cách mạng Tháng Tám, Quốc khánh 2-9, phát huy tốt bản chất truyền thống bộ đội Cụ Hồ, phối hợp với Đoàn thanh niên và các cơ quan chức năng tăng cường giáo dục thế hệ trẻ, giúp họ nhận thức tốt hơn giá trị của hòa bình, độc lập lớn lao chừng nào. Qua đó, giúp họ tiếp tục thực hiện tốt hoài bão, lý tưởng vươn lên xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong tình
hình mới.

ThS TRẦN QUANG TOẠI, Chủ tịch Hội Khoa học lịch sử Đồng Nai:

Phát huy bài học đoàn kết từ Cách mạng Tháng Tám

 

78 năm trước, vào những ngày cuối tháng 8-1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân và dân ta đã tiến hành cuộc tổng khởi nghĩa và giành thắng lợi. Ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội), thay mặt Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa - nhà nước công - nông đầu tiên ở Đông Nam Á.

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9-1945 là sự kiện vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Đó là thắng lợi của sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt, khéo léo; chủ động đón thời cơ và kiên quyết chớp thời cơ của Đảng… Đặc biệt, đó còn là thắng lợi của tinh thần đoàn kết một lòng của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta.

Bài học đoàn kết từ cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 vẫn còn nguyên giá trị trong mọi thời đại. Tôi cho rằng, để phát huy tinh thần đoàn kết, cần tạo được niềm tin trong nhân dân. Để làm được điều này, ngoài việc phải thay đổi cơ chế, chính sách sát với thực tiễn, đáp ứng được tâm tư, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân, cần một đội ngũ cán bộ, đảng viên trong sạch, luôn phấn đấu vì mục tiêu chung.

Thầy CAO TIẾN DŨNG, giáo viên Tổng phụ trách Đội Trường THCS Trần Hưng Đạo (TP.Biên Hòa):

Thế hệ trẻ cần hiểu rõ về ý nghĩa Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9

 

Là thế hệ may mắn được sinh ra và lớn lên khi đất nước đã hòa bình, non sông thu về một mối, chúng tôi chỉ biết về Cách mạng Tháng Tám, Quốc khánh 2-9-1945 qua những trang sách, những thước phim tư liệu. Thế nhưng, cứ đến mùa thu tháng Tám, Tết Độc lập 2-9, tôi cũng như bao người dân Việt Nam lại thấy bồi hồi, xúc động.

Nếu không có cuộc Cách mạng Tháng Tám, Quốc khánh 2-9 cách đây 78 năm, có lẽ chúng tôi của hôm nay không được hưởng giá trị của hòa bình. Là người trẻ, tôi nhận thấy bản thân phải có trách nhiệm giữ gìn và phát huy những thành quả cách mạng. Muốn vậy, thế hệ trẻ hôm nay cần hiểu rõ về ý nghĩa của Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9.

Trong vai trò giáo viên Tổng phụ trách Đội, những ngày này, cá nhân tôi đã thiết kế các infographics về sự kiện trọng đại này và sẽ đăng tải trên các trang Facebook cá nhân, fanpage của liên đội để tuyên truyền rộng rãi trong đội viên thiếu nhi. Từ đó, nâng cao trách nhiệm của thế hệ trẻ trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Em TRẦN ĐÌNH QUỲNH ANH, học sinh Trường THCS Lê Thánh Tông (H.Định Quán):

Sống xứng đáng với thế hệ cha anh

 

Mỗi khi đến ngày 19-8 và Quốc khánh 2-9, qua các phương tiện thông tin đại chúng, các trang mạng xã hội, em lại được xem lại những hình ảnh, thước phim tư liệu về cuộc Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9 trong lịch sử. Những hình ảnh ấy như nhắc nhở các thế hệ người dân Việt Nam, trong đó có thế hệ măng non phải biết ơn thế hệ cha anh đã anh dũng đấu tranh cho độc lập, tự do của dân tộc, để chúng em có được cuộc sống hòa bình hôm nay.

Cá nhân em nhận thấy, hầu hết người dân Việt Nam, trong đó có em đều ý thức được giá trị thiêng liêng, ý nghĩa lịch sử của sự kiện trọng đại này; trách nhiệm của bản thân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Là học sinh còn ngồi trên ghế nhà trường, trách nhiệm của em chính là học tập tốt, rèn luyện chăm để trở thành con ngoan, trò giỏi, cháu ngoan Bác Hồ, sau này là một công dân tốt của xã hội, xứng đáng với sự hy sinh của thế hệ cha anh.

Nguyệt Hà - Nga Sơn (ghi)


 

Tin xem nhiều