Giáo dục an toàn giao thông (ATGT)được Bộ GD-ĐT đưa vào triển khai đại trà ở bậc tiểu học từ năm học 2002 - 2003. Thực trạng ATGT lúc đó đã đáng báo động nên việc lồng ghép giáo dục ATGT cho học sinh trong nhà trường là một tín hiệu đáng mừng.
Giáo dục an toàn giao thông (ATGT)được Bộ GD-ĐT đưa vào triển khai đại trà ở bậc tiểu học từ năm học 2002 - 2003. Thực trạng ATGT lúc đó đã đáng báo động nên việc lồng ghép giáo dục ATGT cho học sinh trong nhà trường là một tín hiệu đáng mừng.
Chương trình giáo dục ATGT rất sát với thực tế. Các em được làm quen với các loại biển báo giao thông, đèn tín hiệu giao thông, một số điều luật cơ bản, những nguyên nhân và biện pháp phòng tránh tai nạn giao thông, trách nhiệm của bản thân về ATGT... Có thể nói, bước đầu nhà trường đã trang bị khá đầy đủ kiến thức hiểu biết, nhận thức, cả về văn hóa ATGT cho học sinh.
Thế nhưng hiện nay, trách nhiệm giáo dục ATGT cho con trẻ từ phía gia đình chưa được chú trọng. Không ít phụ huynh thiếu gương mẫu trong việc chấp hành giao thông. Cha mẹ chở 3, chở 4, vượt đèn đỏ, phóng nhanh vượt ẩu ngay trước mắt con trẻ... Chẳng khó khăn gì nếu vào những giờ tan trường đi ngang qua một số trường học ở nội ô, chúng ta dễ bắt gặp cảnh phụ huynh đậu xe lấn chiếm lòng lề đường chờ đón con cái làm ách tắc giao thông. Chính hình ảnh này đã tác dụng ngược lại những gì thầy cô đã dạy cho các em ở trường. Lời nói và việc làm trái chiều nhau khiến nhà trường rất khó khăn trong việc giáo dục học sinh chấp hành tốt Luật Giao thông.
Đối với học sinh THPT thì vấn đề này càng nan giải hơn. Nhiều em được cha mẹ cho đi xe gắn máy phân khối lớn dù chưa đủ tuổi. Tham gia giao thông là các em dàn hàng 3, hàng 4, phóng nhanh, vượt ẩu, vượt cả đèn đỏ, lạng lách... Từ học sinh tiểu học đến THPT đều được tuyên truyền, ký kết thực hiện ATGT. Trường không nhận giữ xe đạp của học sinh tiểu học, xe phân khối lớn của học sinh THPT... thì học sinh gửi ở những điểm gần trường. Nhà trường tìm đủ mọi biện pháp để chấn chỉnh thực trạng này, như: nói chuyện dưới cờ, sinh hoạt chủ nhiệm, các buổi sinh hoạt đoàn thể... nhưng hiệu quả vẫn còn ngoài sự mong đợi. Sự thiếu phối hợp của gia đình đã gây ra nhiều hệ lụy khó lường cho chính bản thân các em và cộng đồng.
Việc quản lý học sinh được giao hết cho nhà trường là không thể, mà cần phải có sự phối hợp, sự đồng thuận và quan tâm của gia đình. Gia đình làm gương, sâu sát giáo dục con trẻ sẽ giúp các em có ý thức chấp hành nghiêm chỉnh, có văn hóa khi tham gia giao thông. Bằng không, những cố gắng của nhà trường chỉ là con số không.
Đào Khởi