Đến Đồng Nai, xứ sở của những bầy nai hoang thuở Nguyễn Hoàng mở cõi, mà lại giữa mùa sầu riêng, bỗng dội nhớ những vần thơ đã bất tử hóa Người Bắc Hương Nam ấy...
Đến Đồng Nai, xứ sở của những bầy nai hoang thuở Nguyễn Hoàng mở cõi, mà lại giữa mùa sầu riêng, bỗng dội nhớ những vần thơ đã bất tử hóa Người Bắc Hương
Có những người làm những câu thơ để đời nhưng không lấy văn chương làm mục đích, ấy là Huỳnh Văn Nghệ.
Có những câu thơ mà ta thuộc lòng nhưng không phải ngay từ đầu đã biết xuất xứ. Đó là "Từ độ mang gươm đi mở cõi/ Nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long". Với tôi, Xuân Diệu chỉ nói đó là thơ Huỳnh Văn Nghệ! Tưởng thế cũng đủ!
Vả lại, có gì phải thắc mắc khi hai câu thơ ấy đã chảy thẳng vào huyết quản tôi như một lẽ tự nhiên, chẳng khác "Nam Quốc sơn hà Nam Đế cư" trước đó cả 9 thế kỷ của tướng quân Nhà Lý đứng chân Đất Rồng bay có tên: Lý Thường Kiệt. Như thể con mắt xanh của Ông Trời đã chấm các ông để "địa đồ hóa" lịch sử dựng nước và giữ nước của người Việt biết bao yêu dấu! Sau này tình cờ qua sách báo tôi mới biết được hai câu thơ đã hóa hồng cầu ấy được chiết từ "Nhớ Bắc" của thi tướng họ Huỳnh, cho dù có đôi chút khác biệt:
Ai đi về Bắc ta đi với
Thăm lại non sông giống Lạc Hồng
Từ độ mang gươm đi mở cõi
Trời
Ai nhớ người chăng? Ơi Nguyễn Hoàng
Mà ta con cháu mấy đời hoang
Vẫn nghe trong máu buồn xa xứ
Non nước Rồng tiên nặng nhớ thương
Vẫn nghe tiếng hát thời quan họ
Xen nhịp từng câu vọng cổ buồn
Vẫn thương vẫn nhớ mùa vải đỏ
Mỗi lần phảng phất hương sầu riêng
Sứ mạng ngàn thu dễ dám quên
Chinh
Kinh đô nhớ lại... xa muôn dặm
Muốn trở về quê mơ cảnh tiên.
Chao ôi nhớ, rõ người ấy, hay cùng lắm các bậc sinh thành, chào đời trên đất Bắc. Vậy mà không, ông chưa một lần chạm đất Tràng An. Lại nữa, theo Nguyễn Tý, Huy Thông, Trần Xuân Tuyết và nhiều người khác thì Nhớ Bắc được sáng tác tại Chiến khu Đ (Tây Ninh) năm 1946. Cũng không nốt. Bằng cớ là Xuân Diệu đã đưa những vần thơ diết da toát từ xương tủy ấy vào bài diễn thuyết của mình trong buổi khai mạc Tuần lễ văn hóa Ủng hộ chiến sĩ Nam bộ do Đoàn Văn nghệ Bắc bộ tổ chức tại Nhà hát lớn tối chủ nhật ngày 10-10-1945. Với Xuân Diệu ta vỡ ra tất cả:
"Một bạn quê ở Sài Gòn, chưa từng ra quá Biên Hòa, Bình Thuận, có nói:
Ai đi về Bắc, ta theo với
Thăm lại non sông giống Lạc-Hồng
Từ lúc mang gươm đi mở cõi,
Nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long!
Lời của một người nói ra, mà chính là lời người Việt miền
Cũng chỉ một Xuân Diệu "cha Đàng Ngoài, mẹ ở Đàng Trong" mới có thể "tri âm" đến cùng tận, thể hiện cái quặn nhớ thiêng liêng đến độ như một lời nguyền Bắc -
Đưa tay chỉ lên trời cao trong vắt
Hai ngôi sao trong hai chòm sao Nam-Bắc
... Muốn làm sao ta có sợi dây đàn
Đem giăng thẳng nốI Nam-Bắc
thì không có lẽ nào phải 9 năm sau hừng hực men ấy mới lại bùng phát!
Vậy Nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long và Trời
Có thể khẳng định ngay rằng: Nghìn năm tồn tại một cách đàng hoàng, vững chắc là bởi tính tượng trưng, độ mở của nó cả về thời gian lẫn không gian. Với Trời Nam thì người đọc có thể hiểu rằng từ khi Nguyễn Hoàng Nam tiến cho đến bây giờ hậu duệ của ông không lúc nào nguôi nhớ Kinh đô đất Tổ, còn với Nghìn năm thì không chỉ cho đến lúc này mà hàng nghìn, hàng vạn năm sau, mãi mãi nhớ về nguồn cội. Và điều này quan trọng hơn cả, như một lời thề son sắt. Trịnh Công Sơn chẳng đã yêu mãi ngàn năm đó sao! Lại nữa, với Trời
Nếu như nguyên tác không phải là nghìn năm thì cũng đáng tìm hiểu tại sao ông Tướng họ Huỳnh lại chấp nhận "dị bản" ấy, bởi lúc sinh thời ông không một lần đính chính, không một lần "khởi kiện" dưới hình thức này hay hình thức khác việc "làm sai lệch" đứa con tinh thần của mình trên các ấn phẩm? Hỏi cũng là trả lời, bởi lẽ người tráng sĩ ấy cầm bút là chính vì quần chúng lao khổ. Còn nhớ, ngay từ năm 1937, mục đích làm thơ đã được Huỳnh Văn Nghệ rành mạch trong Mộng làm thơ:
Chàng chỉ muốn đề thơ bằng máu
Trên mây hồng cho gió rải cùng trời
Để những người đau khổ khắp nơi nơi
Ngừng than thở
Và thương nhau...
Đã vì nhân dân mà làm thơ, nghĩa là thơ không phải là mục đích tự thân, làm thơ không phải là "làm nghề" thì còn hạnh phúc nào bằng khi thơ ông được cái khối quần chúng vĩ đại ấy mở lòng đón nhận? Suy cho cùng, "dị bản" lại là chứng cớ hiển nhiên của việc Nhớ Bắc đã được "đại chúng hóa", "dân gian hóa" đến cao độ. Như đã thấy, nếu không có cái "kênh" đại chúng, dân gian ấy thì làm sao Xuân Diệu đã có thể kịp thời chuyển lời lời sắt son của người Việt miền Nam với Tổ quốc trong giờ khắc lâm nguy? Để nói rằng cái sự "lờ" đi không cải chính ấy của Huỳnh Văn Nghệ là một sự chủ động, là nhất quán với quan điểm và cuộc đời "vì nhân dân quên mình" của người chiến sĩ ấy!
Nếu năm xưa người đã khoắc khoải Chúa Nguyễn Hoàng - Người Đi Mở Cõi - thì Huỳnh quân ôi, bao người giờ lại nhớ người đây: trong những viên gạch xây nên một Thủ đô Đại Việt nghìn năm tuổi hẳn có Nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long. Mong lắm câu thơ máu thịt của người Việt miền
Cù Huy Hà Vũ