Lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam đã ghi nhận một sự kiện vô cùng độc đáo. Với sắc lệnh số 125-SL ngày 25-1-1948, lần đầu tiên Chủ tịch Hồ Chí Minh phong hàm cấp tướng cho 11 cán bộ quân đội. Người được phong quân hàm cao nhất là Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Người đứng thứ hai với hàm Trung tướng là Nguyễn Bình đang chỉ huy ở chiến trường Nam bộ. Năm 2000, Trung tướng Nguyễn Bình được Đảng và Nhà nước truy phong danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Lịch sử Quân đội nhân dân Việt
Thượng tá Hồ Sĩ Thành- cán bộ nghiên cứu lịch sử quân sự Quân khu 7 trong công trình biên soạn mang tên "Chiến khu Đ" được Nhà xuất bản Trẻ ấn hành, cho rằng: "Trong quá trình hoạt động, khu trưởng Nguyễn Bình đã đóng góp nhiều công sức cho chiến khu Đ".
* Vị tư lệnh chiến khu Đông Triều
Cái tin ngày
Mãn hạn tù Côn Đảo, Phạm Phương Thảo bị trục xuất về nguyên quán. Vào giữa năm 1941, Mặt trận Việt Minh ra đời, thấy không thể ngồi yên ở làng bần Yên Phú, Phạm Phương Thảo đi tìm Trần Huy Liệu. Xứ ủy Bắc kỳ liền điều động Phạm Phương Thảo (lúc này đổi tên thành Nguyễn Bình) vào công tác binh vận với nhiệm vụ tổ chức mua sắm vũ khí của đám thủy thủ trên các tàu hải quân Pháp ở cảng Hải Phòng. Công việc thành công, chiến khu Đông Triều được trang bị nhiều vũ khí tối tân. Và chùa Bắc Mã trở thành tổng hành dinh quân giải phóng chiến khu Đông Triều. Nguyễn Bình được giao vận động các nhà sư lập đội võ trang tuyên truyền. Khi Nhật đảo chính Pháp, binh lính ở Đông Triều án binh bất động, 54 làng trong huyện nhanh chóng lập ra Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời. Phát huy khí thế, chiến khu Đông Triều mở rộng ra các vùng lân cận và đổi tên thành chiến khu Trần Hưng Đạo. Lực lượng võ trang trong chiến khu lên đến 4 đại đội với 400 tay súng. Tên tuổi của Nguyễn Bình vang lừng với những trận chỉ huy đánh vào tỉnh lỵ Quảng Yên. Tiếp đó là yểm trợ cuộc khởi nghĩa Hải Phòng, trực tiếp giải phóng Tiên Yên, Ba Chẻ, Hòn Gai, Cẩm Phả, Cát Bà...
* Chuyên trước tiên là xây dựng chiến khu
Liên tiếp trong 3 ngày 23, 24 và 25-10-1945, Tây đánh chiếm Biên Hòa. Tám Nghệ (Huỳnh Văn Nghệ) chạy về Tân Uyên gặp lại tướng cướp rừng xanh Chín Quỳ tập hợp lực lượng được 40 dân quân với 30 khẩu súng. Vài hôm sau, Ba Bổ (Cao Văn Bổ) cũng kéo quân về. Tám Nghệ được giao làm chỉ huy đưa toàn bộ lực lượng vũ trang về Tân Tịch, Đất Cuốc xây dựng căn cứ theo như sự chỉ đạo của Sáu Giàu (Trần Văn Giàu), Chủ tịch Lâm ủy hành chính Nam bộ. Với một nhãn quan chính trị, quân sự đặc biệt từ những ngày vừa cướp chính quyền ở Sài Gòn, Sáu Giàu đã căn dặn Tám Nghệ hãy gấp rút trở về Tân Uyên và "xây dựng Tân Uyên thành căn cứ vững chắc vì có ngày ta cần có nơi dưỡng quân, thuận tiện cho việc phản công đánh chiếm Sài Gòn mà cũng thuận tiện cho việc rút quân thẳng tới ba biên giới theo đường 14".
Nhưng rồi Tân Uyên cũng thất thủ như Biên Hòa, Thủ Dầu Một. Sau ba ngày cầm cự, dân quân du kích Tân Uyên rút vô rừng. Thế là dốc Bà Nghiêm cách xã Tân Hòa chừng năm ngàn mét trở thành đại bản doanh của lực lượng kháng chiến Tân Uyên.
Một sáng đầu tháng 11-1945, liên lạc đưa vào dốc Bà Nghiêm gặp chỉ huy lực lượng dân quân Tân Uyên một người đàn ông đi ngựa, mặc quân phục đen, đầu đội nón cối, mắt đeo kính đen, lưng mang sắc cốt da dầy cộm. Đó là Nguyễn Bình - phái viên quân sự của Trung ương. Nguyễn Bình cho biết là ông đã vào Nam theo ngả Tây Nguyên nên tới Thủ Dầu Một trước. Và ông đã tới Lộc Ninh theo đường 13 xuống Hớn Quản, thị xã Phú Cường và theo đường 16 qua đây. Sau khi nhìn quanh dốc Bà Nghiêm, Nguyễn Bình gật gù nói với Tám Nghệ: "Đồng chí chọn nơi đây làm bản doanh là rất tốt. Trên đồi cao ta nhìn thấy cả một vùng phía dưới đồng Tân Hòa, Mỹ Lộc, con sông Đồng Nai và xa hơn nữa là thị trấn Tân Uyên...". Tám Nghệ không giấu nổi sự ngạc nhiên trước sự hiểu biết một cách rành mạch về địa hình, địa vật và cả địa danh của vùng đất quê hương ông của ông phái viên quân sự Trung ương mới chân ướt chân ráo vào Nam. Nguyễn Bình thủng thẳng nói thêm: "Thị xã bị chiếm đóng, bộ đội tản vô rừng. Cũng như ở đây thôi. Cái chính là ta nên chọn một nơi hiểm yếu để lập căn cứ. Có thể thủ lẫn công. Như hổ ở hang vậy, phải xây dựng căn cứ đồng chí ạ. Cần thiết số một..." Và cùng với Tám Nghệ đi một vòng qua dốc Bà Nghiêm, vị tư lệnh chiến khu Đông Triều nổi tiếng miền Bắc vừa phân tích: "Từ Lộc Ninh về đây, tôi thấy rừng xanh nối tiếp rừng xanh, cánh rừng già gần như nguyên thủy thật là hùng vĩ và thơ mộng. Nhưng muốn lập căn cứ, phải là nơi hiểm trở núi rừng, lại phải có đồng ruộng, dân cư để thành một khối liên hoàn, vừa có dân sản xuất nuôi quân, vừa có địa thế công thủ, có sông dài, suối trong vì nước là yếu tố số một của sự sống. Tới đây, thấy con sông Đồng Nai, tôi chọn ngay".
Và hôm sau cùng với Chín Quỳ, Tám Nghệ, Nguyễn Bình đã mỗi người một ngựa làm cuộc khảo sát khắp các khu rừng. Ngay tối đó, Nguyễn Bình lại họp bàn cùng Tám Nghệ: "Chúng ta đã đi giáp vòng khu rừng rộng năm làng và chọn được một vài nơi. Theo mình, căn cứ phải làm nơi hiểm trở, địch khó vô và nhất là khó ra. Thứ hai, nơi đó phải là ngọn đồi để từ trên cao điểm ta có cái nhìn tổng quát, nắm được thế trận. Thứ ba, phải có suối để giải quyết nước ăn và nước tưới tiêu. Thứ nữa, tuy đề ra sau nhưng rất quan trọng là nơi đó phải có dân. Chúng ta không thể đóng quân nơi không có dân. Dân là tai mắt, là vòng tay bảo vệ, là tình yêu thương...".
Và phái viên quân sự Trung ương Nguyễn Bình cho biết ông đã chọn được 3 nơi: "Thứ nhất, Bưng Kè vì đây là nơi có đủ yếu tố tôi vừa nêu lên. Ở đây có vị trí hiểm trở, ở giữa rừng, cách sông Đồng Nai năm ngàn mét, giáp với các xã Thường Lang, Tân Tịch, Mỹ Lộc. Thứ hai, nơi đó có mấy ngọn đồi, từ đó ta có thể kiểm soát địch từ sông đổ bộ lên. Bưng Kè lại có suối và nhiều mảnh ruộng lúa xen kẽ với rừng chồi. Và sau cùng là có xóm ấp chừng vài chục mái nhà. Kế đó là Đất Cuốc, nhưng nhược điểm của nó là đất cằn cỗi, dân quá nghèo, chỉ là địa điểm tạm bợ chớ không vĩnh viễn như Bưng Kè. Thứ ba là Bến Vịnh trên Lạc An. Nơi đây có sẵn cơ sở của một sở cao su. Địa điểm thật hiểm trở vì ở ngay vàm con sông Bé chảy ra sông Đồng Nai, khúc này có nhiều đá bàn. Tàu chiến địch chắc chắn không dám ngược dòng Đồng Nai để liều lĩnh chạy qua các tảng đá hàn".
Nguyễn Bình đã chọn cả ba nơi này để đặt bản doanh và hình thành cả một chiến khu liên hoàn rộng lớn sau đó. Nhưng Bến Vịnh là nơi đầu tiên Nguyễn Bình cho tu sửa đặt văn phòng làm việc. Chính nơi đây, bản thông cáo số 1 đã ra đời và được dán khắp vùng Tân Uyên. Nội dung như sau: "Tôi là Nguyễn Bình, phái viên quân sự Trung ương được Bác Hồ và Bộ tổng phái vào Nam với nhiệm vụ giữ vững miền Nam. Thành phố Hải Phòng tặng tôi khẩu súng Wicker để tự vệ. Nay tôi xin thề cùng đồng bào cả nước: Nam bộ còn, Nguyễn Bình còn; Nam bộ mất, Nguyễn Bình mất. Xin đồng bào hãy cùng quân giải phóng chúng tôi giữ vững miền Nam thân yêu của chúng ta.
Chiến khu Đ cuối năm 1945"
Bùi Thuận