Từ sau hiệp định Genevè đến cuối năm 1960, cùng với toàn Miền, Đảng bộ và nhân dân Đồng Nai đã trải qua một thời kỳ đấu tranh cách mạng đầy gian khổ, hy sinh với kẻ thù mới là đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai.
Từ sau hiệp định Genevè đến cuối năm 1960, cùng với toàn Miền, Đảng bộ và nhân dân Đồng Nai đã trải qua một thời kỳ đấu tranh cách mạng đầy gian khổ, hy sinh với kẻ thù mới là đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai.
* Tái xây dựng lực lượng vũ trang
Sau khi hiệp định Genevè được ký kết, một bộ phận lớn bộ đội ta trong kháng chiến đã lên đường tập kết ra miền Bắc. Số cán bộ chính trị, quân sự còn ở lại trở về sống trong dân, thực hiện cuộc đấu tranh chính trị buộc địch thi hành hiệp định, khi cần có thể tập hợp lại xây dựng lực lượng vũ trang (LLVT). Nhưng với mưu đồ thôn tính nước ta, đế quốc Mỹ đã hất chân Pháp, dựng lên chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm ở miền Nam để làm công cụ đàn áp phong trào cách mạng, độc chiếm miền Nam Việt Nam.
Ngày 1-1-1955, phái đoàn cố vấn quân sự Mỹ (MAAG) vào Sài Gòn huấn luyện, trang bị vũ khí cho quân ngụy và xây dựng bộ máy quân sự của chúng ở miền Nam. Mỹ - Diệm cũng gấp rút đào tạo ngụy tề, đưa những tên ác ôn về các địa phương nắm các chức vụ chủ chốt trong bộ máy ngụy tề cơ sở, củng cố các đơn vị ngụy binh của thực dân Pháp trước đây, biến chúng thành lực lượng nòng cốt của "quân đội quốc gia", dưới sự chỉ huy của MAAG. Mỹ - Diệm còn tăng cường chính sách "tố cộng, diệt cộng", kéo lê máy chém đi khắp miền
Để đấu tranh trước tình hình mới, Xứ ủy
Ngày
Thực tế tình hình cho thấy, Cách mạng miền
Về sau, Tỉnh ủy Biên Hòa đã tập hợp một số cán bộ, chiến sĩ vượt ngục ở nhà lao Tân Hiệp thành lập đại đội võ trang tuyên truyền, lấy phiên hiệu là đại đội 380 (C380) với quân số gồm 60 người. C380 sau đó được bổ sung quân số lên 100 người, do đồng chí Huỳnh Văn Viên làm đại đội trưởng, đồng chí Nguyễn Văn Luông làm chính trị viên, hoạt động chủ yếu ở các xã Tân Hòa, Tân Tịch, Mỹ Lộc (huyện Tân Uyên) và huyện Vĩnh Cửu.
* Thành lập Trung ương Cục miền
Tháng 2-1959, Liên Tỉnh ủy, Ban chỉ huy quân sự miền Đông, Tỉnh ủy Biên Hòa đã chủ động bàn kế hoạch đánh một đòn phủ đầu vào các cơ quan đầu não của Mỹ - Diệm. Điểm được chọn là phái đoàn MAAG, đóng tại nhà máy cưa Biên Hòa (BIF). Đại đội 250 LLVT miền Đông, với phần lớn cán bộ, chiến sĩ là con em của Biên Hòa, được giao trọng trách này. 19 giờ ngày
Cuối năm 1961, thực hiện âm mưu chiến lược "chiến tranh đặc biệt" do Mỹ đề xướng, Ngô Đình Diệm đã ra sắc lệnh thành lập các vùng, các khu chiến thuật. Chúng chia miền Nam thành 4 vùng chiến thuật và một biệt khu thủ đô là Sài Gòn - Gia Định. Riêng ở tỉnh Biên Hòa, chúng cho xây dựng nhiều căn cứ quân sự lớn, như: Bộ chỉ huy quân đoàn 3 ngụy, Nha Cảnh sát miền Đông, sân bay Biên Hòa, tổng kho Long Bình và nhiều đồn bót kiên cố dọc các quốc lộ và các địa bàn xung yếu.
Trước tình hình mới, thực hiện chủ trương của Bộ Chính trị, ngày
Cuối năm 1962, thực lực cách mạng ở Biên Hòa đã phát triển khá mạnh. Ngoài C240 tập trung của tỉnh, các huyện đều có từ 1-2 trung đội bộ đội địa phương và dân quân du kích. Cuộc chiến đấu chống địch gom dân lập ấp chiến lược của quân và dân Biên Hòa diễn ra quyết liệt đến đầu năm 1963, làm phá sản một bước kế hoạch bình định nông thôn của Mỹ - Diệm. Qua đấu tranh, LLVT cách mạng càng lớn mạnh, thanh niên thoát ly tham gia cách mạng ngày càng đông.
Ngày 1-11-1963, chế độ tay sai Ngô Đình Diệm bị lật đổ, đế quốc Mỹ dựng lên chính phủ bù nhìn mới, tiếp tục áp dụng chiến lược đàn áp phong trào cách mạng miền Nam. Để đối phó và làm thất bại âm mưu của Mỹ, tháng 12-1963, Trung ương Cục chủ trương lập lại tỉnh Biên Hòa - Bà Rịa. Đồng chí Nguyễn Sơn Hà (Năm Trị) làm Bí thư Tỉnh ủy, đồng chí Phan Văn Trang làm Phó bí thư, kiêm chính trị viên Tỉnh đội; đồng chí Nguyễn Thanh Bình làm Tỉnh đội trưởng. Sau khi ổn định tổ chức, Tỉnh ủy Biên Hòa phát động phong trào đấu tranh quân sự, chính trị kết hợp với công tác binh vận rộng khắp toàn tỉnh, kiên quyết phá bình định, phá ấp chiến lược của địch.
Đầu tháng 2-1964, đại đội 240 tỉnh Biên Hòa do đồng chí Phan Văn Trang trực tiếp chỉ huy kết hợp với bộ đội huyện Vĩnh Cửu và du kích liên xã tấn công, bao vây đồn Trị An, kêu gọi binh lính địch đầu hàng trở về với gia đình, với cách mạng. Mất đồn Trị An, địa bàn Chiến khu Đ được mở rộng, tạo điều kiện cho bộ đội ta tiến vào hoạt động tấn công địch ở thị xã và sân bay Biên Hòa.
Đức Việt