Báo Đồng Nai điện tử
En

Chỉ tòa án có quyền tuyên bố hợp đồng lao động vô hiệu

11:05, 30/05/2016

Khoản 1, Điều 516 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 (có hiệu lực từ ngày 1-7) quy định việc sửa đổi, bổ sung Điều 51, Luật Lao động năm 2012, như sau: "Thẩm quyền tuyên bố hợp đồng lao động (HĐLĐ) vô hiệu thuộc tòa án".

Khoản 1, Điều 516 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 (có hiệu lực từ ngày 1-7) quy định việc sửa đổi, bổ sung Điều 51, Luật Lao động năm 2012, như sau: “Thẩm quyền tuyên bố hợp đồng lao động (HĐLĐ) vô hiệu thuộc tòa án”.

Luật sư Lê Tấn Tý hỗ trợ pháp lý cho người lao động bị giới chủ sa thải trái luật.
Luật sư Lê Tấn Tý hỗ trợ pháp lý cho người lao động bị giới chủ sa thải trái luật.

Theo đó, kể từ ngày 1-7, việc tuyên bố HĐLĐ vô hiệu phải do tòa án xem xét quyết định, thanh tra lao động không còn quyền này nữa.

* Gọn về thủ tục

Theo quy định của Luật Lao động năm 2012, căn cứ làm phát sinh việc xem xét và tuyên bố HĐLĐ vô hiệu của thanh tra lao động dựa trên cơ sở: trong quá trình thanh tra hoặc giải quyết khiếu nại, tố cáo về lao động, nếu phát hiện nội dung của HĐLĐ vi phạm một trong các nội dung theo quy định tại Điều 51, Luật Lao động thì trưởng đoàn thanh tra hoặc thanh tra viên lập biên bản vi phạm và yêu cầu các bên sửa đổi, bổ sung HĐLĐ.

Luật sư Lê Tấn Tý (Trung tâm tư vấn pháp luật Công đoàn tỉnh) cho biết, theo điều luật cũ, nếu hết thời hạn sửa đổi mà các bên không sửa đổi, bổ sung thì trưởng đoàn thanh tra hoặc thanh tra viên báo cáo chánh thanh tra. Trên cơ sở đó, chánh thanh tra mới xem xét, ra quyết định tuyên bố HĐLĐ vô hiệu một phần hoặc toàn bộ. Còn Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì quy định rộng hơn, có nhiều chủ thể có quyền thực hiện yêu cầu này, gồm: người lao động, người sử dụng lao động, tổ chức đại diện tập thể lao động, kể cả cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, cũng có quyền yêu cầu tòa án tuyên bố HĐLĐ vô hiệu.

Theo quy định của Nghị định 44/2013/NĐ-CP ngày 10-5-2013, khi phát hiện hành vi vi phạm, trưởng đoàn thanh tra hoặc thanh tra viên lập biên bản vi phạm, yêu cầu các bên sửa đổi, bổ sung trong thời hạn 5 ngày. Hết thời hạn này, các bên không thực hiện thì trong thời hạn 3 ngày báo cáo chánh thanh tra. Chánh thanh tra xem xét trong thời hạn 3 ngày... Luật sư Tý phân tích: “Thủ tục này rườm rà, qua nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn đều phải trải qua một thời hạn để giải quyết, đó là chưa kể đến việc thanh tra phải theo dõi việc chấp hành quyết định của thanh tra. Còn theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, các chủ thể có quyền gửi đơn thẳng ra tòa án có thẩm quyền để yêu cầu tòa giải quyết tuyên bố HĐLĐ vô hiệu và buộc tòa án phải thụ lý giải quyết theo luật định. Đó là chưa nói đến việc tòa án có quyền thụ lý, giải quyết theo thủ tục rút gọn. Bởi, theo thủ tục rút gọn thì thời hạn chuẩn bị xét xử tại cấp sơ thẩm chỉ có 10 ngày. Rõ ràng, quy định mới đơn giản, nhanh chóng hơn, đảm bảo giải quyết quyền lợi kịp thời cho các chủ thể tham gia xác lập quan hệ lao động, trong đó có đối tượng mà xã hội rất quan tâm là người lao động”.

* Phán quyết của tòa mới thật sự mạnh

Qua nhiều năm tham gia bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng cho người lao động tại tòa, luật sư Tý dẫn giải, khi thanh tra ra quyết định tuyên bố HĐLĐ vô hiệu và đưa ra nội dung yêu cầu buộc các bên phải thực hiện (trong đó có cả yêu cầu khắc phục về lợi ích vật chất mà các bên phải thực hiện, bởi đây là loại hợp đồng song vụ, lợi ích của bên này là nghĩa vụ của bên kia và ngược lại). Giả sử, trong quyết định của thanh tra có nội dung buộc người sử dụng lao động phải thanh toán một khoản tiền cho người lao động vì lý do người sử dụng lao động trả lương thấp hơn mức lương tối thiểu vùng theo quy định của Chính phủ. Vấn đề đặt ra là, nếu bên sử dụng lao động không thực hiện thì cơ quan nào chịu trách nhiệm cưỡng chế thi hành quyết định của thanh tra. Do đó, buộc người lao động phải căn cứ vào quyết định tranh tra để khởi kiện người sử dụng lao động ra tòa. Như vậy, tốn nhiều thời gian đối với người lao động.

Theo quy định tại Điều 51, Luật Lao động năm 2012, chỉ có thanh tra lao động và tòa án mới có quyền tuyên bố hợp đồng lao động vô hiệu. Từ ngày 1-7, thanh tra lao động không còn quyền này nữa, vì Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định tại Khoản 1, Điều 516 như sau: “Chỉ có tòa án mới có quyền tuyên bố hợp đồng lao động vô hiệu”.

Còn theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, khi tòa án giải quyết việc tuyên bố HĐLĐ vô hiệu, nếu tòa chấp nhận đơn yêu cầu của đương sự thì tòa có quyền ra quyết định tuyên bố HĐLĐ vô hiệu, xử lý hậu quả HĐLĐ. Quyết định của tòa, nếu không bị kháng cáo, kháng nghị thì có hiệu lực pháp luật và có tính cưỡng chế thi hành theo Luật Thi hành án dân sự. Trên cơ sở đó, cơ quan Thi hành án dân sự cứ việc căn cứ theo quyết định, bản án của tòa mà thực thi nhiệm vụ. “Việc thực thi phán quyết của tòa án vẫn khả thi hơn, hiệu quả hơn, đảm bảo hơn so với việc thực hiện quyết định của thanh tra” - luật sư Tý nhấn mạnh.

Thành Nhân

 

 

 

Tin xem nhiều