Hỏi: Cha mẹ tôi kết hôn năm 1989. Quá trình sống chung cha mẹ tôi xây được một căn nhà ở TX.Dĩ An (tỉnh Bình Dương). Sau này mẹ tôi đã chuyển nhượng một phần tài sản cho người khác. Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất có văn phòng công chứng xác nhận nhưng chỉ ghi tên mẹ tôi. Xin hỏi, việc chuyển nhượng trên có đúng quy định pháp luật không?
Hỏi: Cha mẹ tôi kết hôn năm 1989. Quá trình sống chung cha mẹ tôi xây được một căn nhà ở TX.Dĩ An (tỉnh Bình Dương). Sau này mẹ tôi đã chuyển nhượng một phần tài sản cho người khác. Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất có văn phòng công chứng xác nhận nhưng chỉ ghi tên mẹ tôi. Xin hỏi, việc chuyển nhượng trên có đúng quy định pháp luật không?
Nguyễn Ngọc Điệp (tỉnh Bình Dương)
Trả lời: Tài sản chung của vợ chồng là phần được tạo lập, thu nhập hợp pháp trong thời gian hôn nhân. Theo quy định, thời kỳ hôn nhân được tính từ khi đăng ký kết hôn, hoặc đối với các vợ chồng không đăng ký kết hôn nhưng sống chung từ trước ngày 3-1-1987, trong đó tài sản đất gồm đất, nhà của vợ chồng; lợi nhuận do sản xuất, kinh doanh mà có. Do đó, tài sản vợ chồng là của chung 2 người. Nói cách khác, tài sản chung của vợ chồng là để đảm bảo nhu cầu và nghĩa vụ trong cuộc sống gia đình. Vì thế, việc mẹ chị đứng tên trên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho người khác mà không có văn bản ủy quyền hoặc văn bản đồng ý của cha chị là không đúng quy định của pháp luật.
Để đảm bảo quyền lợi của mình, cha chị có thể khởi kiện ra tòa xin tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa mẹ chị và người nhận chuyển nhượng là vô hiệu.
LS.Ngô Văn Định