
Trong dịp đi xác minh trường hợp của ông Lưu Văn Nở, chúng tôi được nghe vợ chồng ông Hai Thông kể về trường hợp của một nữ đồng đội hy sinh đã 40 năm nhưng đến nay vẫn chưa được công nhận liệt sĩ. Và chúng tôi lại lần theo từng nhân chứng để từ đó hy vọng nêu được sự thật về cái chết của người nữ cán bộ Hội Liên hiệp phụ nữ (LHPN) trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ.
Trong dịp đi xác minh trường hợp của ông Lưu Văn Nở, chúng tôi được nghe vợ chồng ông Hai Thông kể về trường hợp của một nữ đồng đội hy sinh đã 40 năm nhưng đến nay vẫn chưa được công nhận liệt sĩ. Và chúng tôi lại lần theo từng nhân chứng để từ đó hy vọng nêu được sự thật về cái chết của người nữ cán bộ Hội Liên hiệp phụ nữ (LHPN) trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ
.* Nỗi khổ của người phụ nữ thời chiến
Đó là trường hợp của bà Lưu Thị Xinh, bí danh Ba Huyền Tâm, sinh năm 1942, là người xã Long Tân (huyện Nhơn Trạch). Bà thoát ly kháng chiến năm 1962, từng làm Chủ tịch Hội LHPN huyện Nhơn Trạch.
Về hoàn cảnh hy sinh của Ba Huyền Tâm, ông Tám Tài, nguyên Bí thư xã Long An (huyện Long Thành) kể: "Khoảng năm 1968, đoàn của Huyện ủy Nhơn Trạch, trong đó có chị Ba Huyền Tâm đi công tác ở khu vực xã Long An. Đêm đó, đoàn ngủ lại ở đồng xóm Gốc. Nơi này tiếp giáp với mí rừng toàn mật cật và chồi non thâm thấp, nên khi có mấy chiếc trực thăng của Mỹ bay tới rọi đèn thì đoàn bị phát hiện và lập tức bị bắn. Có mấy anh em hy sinh, còn chị Ba bị trúng đạn từ phía trước ngực trổ ra tới phía sau lưng, vỡ cả xương bả vai. May là đêm đó tụi nó chỉ bắn mà không đổ bộ binh, nên sau đó mọi người mới đưa được số anh chị em bị thương về trạm y tế chữa trị. Riêng trường hợp của chị Ba, bị thương nặng lại đang có thai gần ngày sinh nên chỉ ngày càng yếu, nếu cứ để nằm trạm y tế miết chắc sẽ chết. Chính anh Hai Thông - lúc đó đương là Bí thư Huyện ủy Nhơn Trạch - tổ chức họp Ban thường vụ. Mọi người đồng ý với quyết định đưa chị Ba ra ngoài để sanh con, chữa trị vết thương. Tôi nhớ lúc đó, người đưa chị Ba ra ngoài là bà Phan Thị Nho (má của anh Hai Thông) cùng với chị Năm Quyện (là vợ của anh Chín Lý), đều là những người tham gia cách mạng. Mà nơi chị Ba ra nằm chờ sanh là nhà bà Mười Xẻo ở xã Đại Phước cũng là cơ sở của mình chứ có phải ai xa lạ. Ra được chừng hơn một tháng, chị Ba sanh được đứa con gái, nhưng yếu quá nên đứa nhỏ mất. Chị Ba phần vì buồn rầu, phần vết thương ngày càng nặng nên chỉ cũng mất sau đó mấy ngày".
Xin được phép nói đôi dòng về đời tư của bà Ba Huyền Tâm. Người chồng đầu tiên của bà là ông Lư Văn Chắc (bí danh Ba Vân), từng giữ nhiệm vụ Phó bí thư Huyện ủy Nhơn Trạch, hy sinh năm 1966. Người đồng đội của ông là Phạm Minh Chính (cũng là Phó bí thư Huyện ủy Nhơn Trạch) có vợ là bà Trà Thị Ánh Nguyệt cũng hy sinh trong năm ấy. Thấy 2 người cùng cảnh ngộ nên mọi người có ý vun vào. Sau khi được phép của tổ chức, ông Chính và bà Ba Huyền Tâm đã chính thức sống với nhau. Sau này, ông Chính cũng hy sinh vào năm 1972. Người con mất khi Ba Huyền Tâm sinh ở xã Đại Phước là con của ông Chính, còn với người chồng đầu tiên là ông Ba Vân thì bà có 2 người con.
* Đi tìm những điều "nghe nói"
Trường hợp của bà Ba Huyền Tâm có thuận lợi hơn 2 trường hợp trước là hoàn cảnh chiến đấu, hy sinh đều rõ ràng. Hoạt động của bà Ba Huyền Tâm qua các thời kỳ đều được đồng đội chứng kiến nên việc xác minh có phần dễ dàng. Nhưng trường hợp này lại khó ở điểm là về hoàn cảnh gia đình lại ít người biết rõ. Ba Huyền Tâm chỉ là bí danh, đồng đội chẳng mấy người còn nhớ tên thật của bà. 2 người chồng của bà cũng đều hy sinh, thậm chí cả 2 người đều chưa tìm được hài cốt.
Từ thông tin "nghe nói" sau giải phóng, "hình như" hài cốt của bà Ba Huyền Tâm được đưa về Long Thành, chúng tôi liền lên đường đến Nghĩa trang liệt sĩ huyện tìm cầu may, bởi với một người chưa được công nhận liệt sĩ thì không mấy hy vọng sẽ được đưa về đây. Gặp bà Phạm Thị Em, cán bộ phụ trách nghĩa trang, chúng tôi nhờ bà tìm giúp giùm xem có ngôi mộ nào mang tên Huyền Tâm, công tác tại Hội LHPN huyện Nhơn Trạch, hy sinh năm 1968. Bê quyển danh sách liệt sĩ dày cộm ra, bà Em sốt sắng lật tìm nhưng thật tình hy vọng của chúng tôi cũng rất mỏng manh bởi giữa hàng ngàn ngôi mộ được chôn cất tại đây, chuyện tìm kiếm của chúng tôi như mò kim đáy bể. Thế mà "chuyện lạ" đã xảy ra: vừa lật nhanh qua đến hơn nửa quyển sổ, bỗng dưng bà Em rùng mình và quay lại trang vừa lật qua. Ngay trên trang lật lại ấy, có dòng chữ nhỏ về bà Ba Huyền Tâm như tên, bí danh, năm sinh, năm mất, đơn vị công tác. Tất cả đều trùng khớp với thông tin do đồng đội của bà cung cấp. Mộ nằm ở lô X, hàng số 4, ngôi thứ 2. Và không biết trùng hợp ngẫu nhiên thế nào, mộ của bà Trà Thị Ánh Nguyệt cũng nằm cùng lô, ở hàng số 2.
Thông tin "nghe nói" thứ hai mà chúng tôi có được cũng rất mơ hồ: quê gốc của ông Ba Vân ở xã Phú Hội (huyện Nhơn Trạch), sau giải phóng 2 người con vẫn ở đó, nhưng không nhớ tên.Với điều "nghe nói" ấy, chúng tôi về xã Phú Hội. Được sự giúp đỡ nhiệt tình của ông Huỳnh Văn Xuyên, Phó chủ tịch UBND xã, chúng tôi lần ra được bà Trà Thị Xửng, 75 tuổi, là chị em cô cậu với ông Ba Vân. Từ bà Xửng, manh mối về 2 người con của ông Ba Vân mới dần sáng tỏ: một con gái là Lư Hồng Xuân, sinh năm 1962; một con trai là Lư Hồng Nam, sinh năm 1965. Gia đình phía bà Huyền Tâm thì chỉ còn người em út tên Lưu Thị Hết, ngụ tại xã Phước Thiền, nhưng lúc bà Tâm hy sinh thì bà Hết còn quá nhỏ nên hầu như không biết gì.
Nhắc đến vợ chồng ông Ba Vân, bà Xửng lại khóc: "Tội nghiệp, vợ chồng nó hy sinh hết, bỏ lại 2 đứa nhỏ cù bơ cù bất, không cửa không nhà, khổ ơi là khổ. Hồi đó, tụi nó may nhờ có bà con đùm bọc, rau cháo nuôi nhau, nhưng bà con cũng nghèo quá, đâu có lo được gì thêm. Giờ thì con Xuân phải đi ở đợ giữ con cho người ta trên thành phố, còn thằng Nam ở nhờ bên nhà vợ ở Bến Gỗ, bản thân nó cũng phải đi làm công nhân đâu tuốt ở dưới miệt Long An. Phải chi ba má tụi nó mà còn thì đâu tới nông nỗi như vậy".
Từ sự chỉ dẫn của gia đình bà Xửng, chúng tôi tìm được gia đình anh Lư Hồng Nam tại số 180, khu 1, ấp Phước Hội, xã Long Hưng (huyện Long Thành). Chị Hà Thị Hương, vợ anh Nam kể, sau ngày giải phóng ba anh Nam là liệt sĩ Lư Văn Chắc đã được công nhận ngay, nhưng về trường hợp của mẹ anh thì sau khi làm thủ tục, đến khoảng năm 1995 gia đình nhận được công văn thông báo bà Lưu Thị Xinh chết do sinh nở nên không được công nhận là liệt sĩ (?).
* Cần một tấm lòng cho người đã khuất
Tiếp xúc với ông Nguyễn Xuân Cương, Trưởng phòng Thương binh - liệt sĩ của Sở Lao động - thương binh và xã hội (LĐ-TBXH), chúng tôi được biết đây là một trong những hồ sơ "rắc rối", phải họp tới họp lui và bàn cãi rất nhiều. Nguyên nhân của sự rắc rối là do lời khai của người xác nhận hồ sơ liệt sĩ, bà Nguyễn Thị Nữ - nguyên Chủ tịch Hội LHPN huyện Nhơn Trạch (trong kháng chiến, 2 huyện Long Thành và Nhơn Trạch nhiều lần nhập vào, tách ra). Theo lời bà Nữ, trường hợp bà Lưu Thị Xinh chết là "trong lúc tình hình chiến tranh ác liệt đồng chí có mang thai, trong lúc sinh nở không có người đỡ nên bị băng huyết mà chết". Chính vì lý do này, Bộ LĐ-TBXH đã căn cứ vào Nghị định 28/CP ngày
Bà Mai Thị Liễu, vợ ông Hai Thông, bức xúc: "Tôi nói thiệt, đàn ông tham gia kháng chiến cực khổ một thì chị em phụ nữ tụi tôi cực khổ mười. Sanh nở là chức năng tự nhiên của phụ nữ, giả như chị Ba không đi kháng chiến mà ở nhà, sanh nở bình thường thì đâu có chuyện, vậy sao mà không tính đến trường hợp đó. Hồi đó tôi, chị Ba Huyền Tâm với chị Trà Thị Ánh Nguyệt cùng chui dưới địa đạo Phước An, cực không sao kể xiết, chết hụt cũng mấy lần mà có khi nào chị em tụi tôi nhụt chí đâu. Lần giặc nó pháo sập địa đạo, chừng đưa ra được thì chị Nguyệt hy sinh, còn lại có tôi với chị Ba. Giờ còn lại có mình tôi, chị Ba thì đã mất nhưng không được công nhận công lao đóng góp, hỏi sao người còn sống như tụi tôi không đau lòng?". Ông Tám Tài thì lắc đầu: "Tôi khẳng định là trước đó chị Ba bị thương rất nặng, sau đó lại thêm cái vụ sinh con nên mới chết. Mà nói vậy chứ không lẽ phụ nữ đi kháng chiến thì không có quyền sinh, không có quyền làm mẹ hay sao? Nói vậy thiệt thòi cho chỉ quá!".
Theo Thông tư 03 của Bộ LĐ-TBXH, thì những trường hợp chết do ốm đau, tai nạn, rủi ro trong kháng chiến chống Mỹ cũng được xét công nhận liệt sĩ. Vậy vì sao trường hợp "trong kháng chiến lúc sinh nở không có người đỡ nên bị băng huyết mà chết" như bà Lưu Thị Xinh lại không được xét là ốm đau, là rủi ro để được công nhận liệt sĩ? Hơn nữa, bà Lưu Thị Xinh đang tham gia hoạt động cách mạng và bị thương nặng, sau đó cộng thêm yếu tố sinh nở nên mới chết, rõ ràng việc công nhận liệt sĩ là đúng quy định.
Đã 40 năm trôi qua, nỗi đau thương, mất mát của một gia đình cả nhà đều tham gia kháng chiến như bà Ba Huyền Tâm đã quá lớn khó thể bù đắp. Không lý gì lại tiếp tục để điều oan trái ấy kéo dài. Điều này vừa thiếu công bằng, vừa không phù hợp với chính sách nhân đạo của Đảng và Nhà nước ta.
Thanh Thúy
Kỳ 2: NGƯỜI TRUNG ĐỘI TRƯỞNG HY SINH CHƯA ĐƯỢC CÔNG NHẬN LIỆT SĨ















