Chiều 5-11, tiếp tục Kỳ họp thứ 10, Quốc hội thảo luận ở tổ về: Dự án Luật Quản lý thuế (sửa đổi); Dự án Luật Thuế thu nhập cá nhân (sửa đổi); Dự án Luật Tiết kiệm, chống lãng phí. Phó Trưởng Đoàn ĐBQH tỉnh Quảng Trị Hoàng Đức Thắng điều hành thảo luận Tổ 10 (gồm Đoàn ĐBQH tỉnh Ninh Bình và Đoàn ĐBQH tỉnh Quảng Trị).
![]() |
| Toàn cảnh thảo luận Tổ 10 |
Dự thảo luật có bước cải cách toàn diện, mang tính đột phá
Góp ý hoàn thiện dự thảo Luật Quản lý thuế (sửa đổi), các ý kiến khẳng định đây là đạo luật có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong quản lý tài chính quốc gia, bảo đảm nguồn thu ngân sách; đồng thời tạo môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp, hộ kinh doanh và người dân thực hiện nghĩa vụ thuế một cách minh bạch, công bằng. Việc sửa đổi toàn diện Luật Quản lý thuế là một yêu cầu cấp thiết, xuất phát từ cả cơ sở pháp lý và đòi hỏi của thực tiễn.
Dự thảo Luật Quản lý thuế (sửa đổi) đã có bước cải cách toàn diện, mang tính đột phá, giải quyết các bất cập của luật hiện hành mà còn định hình một khung khổ quản lý thuế hiện đại, phù hợp với xu thế phát triển của kinh tế số và hội nhập quốc tế. Đại biểu cho rằng, thách thức lớn nhất lại nằm ở khâu tổ chức thực hiện, bao gồm việc xây dựng hạ tầng công nghệ đồng bộ, nâng cao năng lực cho cả cơ quan thuế và người nộp thuế, và đặc biệt là việc chuyển đổi phương thức quản lý đối với hộ kinh doanh.
![]() |
| Đại biểu tham gia thảo luận tại Tổ 10 |
Các ý kiến cũng đề nghị rà soát, thống nhất các quy định trong dự thảo luật với Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Giao dịch điện tử để tránh mâu thuẫn, chồng chéo. Cân nhắc sửa quy định về khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực thuế, bổ sung nội dung khuyến khích người dân, doanh nghiệp phản ánh hành vi tiêu cực của cán bộ thuế qua kênh điện tử và quy định rõ trách nhiệm xử lý phản ánh trong thời hạn nhất định; đồng thời, cần có cơ chế bảo vệ người nộp thuế khi bị áp dụng biện pháp cưỡng chế sai, tạo công cụ pháp lý để người dân yên tâm, doanh nghiệp yên ổn làm ăn.
Rà soát các quy định về xử phạt, bảo đảm tính răn đe nhưng không tạo gánh nặng
Quan tâm đến quy định về công tác thanh tra, kiểm tra thuế, đại biểu Hà Sỹ Đồng – Đoàn ĐBQH tỉnh Quảng Trị nêu thực tế hiện nay tình trạng thanh tra, kiểm tra chồng chéo giữa các cơ quan trung ương và địa phương vẫn còn xảy ra, gây áp lực và phiền hà cho doanh nghiệp. Đại biểu đề nghị bổ sung một khoản mới vào Điều 10 và quy định rõ: “Việc thanh tra, kiểm tra thuế phải bảo đảm nguyên tắc không chồng chéo giữa các cơ quan, đơn vị; trong vòng 12 tháng kể từ ngày ban hành kết luận thanh tra, kiểm tra, không được kiểm tra lại cùng nội dung, trừ trường hợp có dấu hiệu vi phạm pháp luật hình sự.” Đồng thời, tại Điều 11 về phân cấp thẩm quyền kiểm tra, đề nghị cần sửa Khoản 2 theo hướng: “Trường hợp cơ quan thuế trung ương trực tiếp kiểm tra tại địa phương phải có văn bản ủy quyền, nêu rõ phạm vi, thời hạn và thông báo cho cơ quan thuế địa phương phối hợp, tránh kiểm tra trùng lặp.” Hai nội dung này sẽ góp phần quan trọng trong việc khắc phục tình trạng “nhiều đoàn cùng kiểm tra một doanh nghiệp”, tạo niềm tin và bảo đảm sự ổn định trong môi trường đầu tư, kinh doanh.
![]() |
| Đại biểu Hà Sỹ Đồng - Đoàn ĐBQH tỉnh Quảng Trị phát biểu |
Cho ý kiến về trách nhiệm hướng dẫn, hỗ trợ người nộp thuế (Điều 35) - một trong những yếu tố cốt lõi để chính sách thuế được tuân thủ tự nguyện là sự đồng hành, hướng dẫn tận tình từ cơ quan thuế, đại biểu đề nghị bổ sung khoản mới quy định: “Cơ quan thuế và công chức thuế có trách nhiệm hướng dẫn, hỗ trợ người nộp thuế trong kê khai, nộp thuế, sử dụng hóa đơn điện tử và các dịch vụ công trực tuyến; kết quả hỗ trợ là tiêu chí đánh giá hiệu quả công tác của cơ quan và cán bộ thuế.” Đồng thời, để thể hiện rõ tinh thần phục vụ, cần rà soát lại các quy định về xử phạt, bảo đảm tính răn đe nhưng không tạo gánh nặng hoặc hình sự hóa quan hệ hành chính – thuế.
Phân nhóm người nộp thuế: Có tiêu chí đảm bảo công khai, minh bạch
Tán thành với quy định về phân nhóm người nộp thuế trong quản lý thuế tại Điều 3 dự thảo Luật Quản lý thuế (sửa đổi), đại biểu Trần Thị Hiền – Đoàn ĐBQH tỉnh Ninh Bình cho rằng, nếu việc phân nhóm không chính xác, hoặc không rõ ràng có thể ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Nhất là với doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ nếu tiêu chí thiếu minh bạch, không có phân biệt với doanh nghiệp lớn sẽ gây nhiều khó khăn và gánh nặng mới, nhất là về thủ tục.
Vì vậy, tại khoản 3 của Điều 3 giao Bộ Tài chính quy định chi tiết điều này, đại biểu đề nghị sửa đổi theo hướng, Bộ Tài chính rà soát kỹ lưỡng để quy định phân nhóm riêng đối với “doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ”; đồng thời quy định trách nhiệm phải công khai, minh bạch tiêu chí phân nhóm, để doanh nghiệp biết đầy đủ thông tin và thực hiện.
![]() |
| Đại biểu Trần Thị Hiền – Đoàn ĐBQH tỉnh Ninh Bình phát biểu |
Cùng với việc xếp doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ là một nhóm riêng trong phân nhóm người nộp thuế, đại biểu đề nghị có các quy định đặc thù với nhóm đối tượng này: “Nếu doanh nghiệp nhỏ, hộ kinh doanh tuân thủ tốt 3 năm liên tiếp (không vi phạm), thì được hưởng chế độ ưu tiên về thủ tục miễn kiểm tra tại chỗ hoặc được ưu tiên dịch vụ điện tử; quy định những chính sách riêng có tính chất hỗ trợ kỹ thuật từ cơ quan thuế như hướng dẫn miễn phí, cổng khai thuế đơn giản….”, đại biểu Trần Thị Hiền đề xuất.
Cũng quan tâm đến quy định về phân nhóm người nộp thuế trong quản lý thuế, đại biểu Trần Quang Minh – Đoàn ĐBQH tỉnh Quảng Trị cho biết, khoản 3 Điều 3 dự thảo luật quy định “Bộ Tài chính quy định chi tiết Điều này”. Tuy nhiên, việc cụ thể hóa quy định trong Luật phải do Chính phủ thực hiện để đảm bảo tính pháp lý cao hơn, gắn với nguyên tắc công khai, minh bạch, dân chủ, khách quan; cũng như đảm bảo phạm vi giám sát của Quốc hội. Vì vậy, đại biểu đề nghị cân nhắc xem xét điều chỉnh lại thẩm quyền cụ thể hóa quy định này từ Bộ Tài chính sang Chính phủ.
Bên cạnh đó, dự thảo chưa thể hiện rõ cơ chế phản hồi của người nộp thuế. Nếu xảy ra tình trạng khi người nộp thuế thấy bản thân được phân nhóm không đúng thì họ không biết kiến nghị, phản hồi ở đâu? Vì vậy, cần bổ sung cơ chế tiếp nhận kiến nghị, phản ánh để đảm bảo siết chặt trách nhiệm giải trình của cơ quan thuế trong việc minh chứng nghĩa vụ thuế, trả lời và tiếp thu phản ánh, kiến nghị của người nộp thuế; tránh việc lợi dụng, lạm dụng quyền hạn trong thi hành công vụ; luật giao Chính phủ quy định chi tiết quy trình này.
![]() |
| Đại biểu tham gia thảo luận tại Tổ 10 |
Ngoài ra, Cơ quan soạn thảo nghiên cứu bổ sung cơ chế ưu tiên khi người nộp thuế hợp tác, tuân thủ đúng quy định như giảm tần suất kiểm tra tại trụ sở, được ưu tiên giải quyết nhanh các thủ tục hoàn thuế, miễn giảm thuế, được cơ quan thuế chỉ định một đầu mối liên lạc riêng để hỗ trợ, giải đáp vướng mắc... để khuyến khích việc tuân thủ pháp luật của người nộp thuế nhằm đổi lại quyền lợi chính đáng về thuế.
Cần quy định lộ trình xóa bỏ thuế khoán
Khoản 1 Điều 13 dự thảo luật quy định: “Hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh căn cứ mức doanh thu thực tế hằng năm từ hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ tự xác định thuộc đối tượng không chịu thuế, đối tượng không phải nộp thuế, đối tượng chịu thuế, đối tượng phải nộp thuế theo quy định của pháp luật về thuế”. Theo đại biểu Trần Quang Minh, bản chất việc áp dụng cơ sở tính thuế dựa trên doanh thu xuất phát từ thực tiễn đối tượng hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh không có hệ thống sổ sách kế toán bài bản, không có thói quen và năng lực lưu trữ đầy đủ hóa đơn, chứng từ chi phí đầu vào. Việc bãi bỏ cơ chế thuế khoán đã và đang yêu cầu đối tượng này dần dần phát triển theo hướng chuyên nghiệp hơn. Đây là một chủ trương đúng theo Nghị quyết 68-NQ/TW, nhưng cũng có rủi ro về tính khả thi, năng lực kế toán, khai thuế của hàng triệu hộ kinh doanh còn hạn chế; hạ tầng công nghệ và dữ liệu chia sẻ giữa các bộ ngành chưa đồng bộ…Theo đại biểu, nếu thực hiện đồng loạt, có thể dẫn đến quá tải cho cơ quan thuế, phát sinh sai sót, nợ đọng thuế và thậm chí tăng chi phí tuân thủ cho hộ kinh doanh nhỏ lẻ. Do đó, đại biểu đề nghị cần có lộ trình chuyển đổi theo từng nhóm quy mô, kết hợp hỗ trợ kỹ thuật, kế toán đơn giản, phần mềm miễn phí cho hộ nhỏ.
![]() |
| Đại biểu Trần Quang Minh – Đoàn ĐBQH tỉnh Quảng Trị phát biểu |
Mặc dù Tờ trình của Chính phủ và thuyết minh dự thảo Luật đã đưa ra lộ trình áp dụng cơ sở tính thuế dựa trên doanh thu chuyển sang hình thức tính thuế dựa trên lợi nhuận khi đã hoàn tất chuyển đổi. Tuy nhiên để tăng sự ủng hộ, tạo động lực chuyển đổi và tránh ý kiến trái chiều từ cộng đồng này, dự thảo Luật cần có ít nhất một nội dung mang tính định hướng rõ ràng như một cam kết chính trị, thể hiện thiện chí của Nhà nước trong việc lắng nghe, hỗ trợ cộng đồng kinh doanh này trong thời gian dài. Đại biểu đề nghị quy định ngay trong Luật định hướng về lộ trình chuyển đổi từ áp dụng cơ sở tính thuế dựa trên “doanh thu” của đối tượng hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh sang hình thức khác phù hợp.
Thực tế, các đối tượng kinh doanh này đang vướng mắc trong thực tế do thiếu các kỹ năng cơ bản về kế toán, sử dụng hóa đơn điện tử, và ứng dụng công nghệ thông tin; cần có sự hỗ trợ của Nhà nước để các đối tượng này chuyển đổi; đồng thời không áp dụng mô hình doanh nghiệp một cách cứng nhắc cho đối tượng kinh doanh giản đơn hơn. Đại biểu đề nghị bổ sung điều khoản quy định cụ thể về lộ trình, chính sách khuyến khích chuyển đổi cụ thể hơn, như: cung cấp miễn phí hoặc hỗ trợ phần lớn chi phí cho các giải pháp phần mềm kế toán đơn giản và hóa đơn điện tử khởi tạo từ máy tính tiền đối với các hộ kinh doanh có doanh thu dưới ngưỡng do Chính phủ quy định; quy định chế độ kế toán đơn giản, không áp dụng các chuẩn mực kế toán phức tạp như doanh nghiệp…
![]() |
| Đại biểu tham gia thảo luận Tổ 10 |
Đồng tình với quan điểm trên, đại biểu Trần Thị Hiền – Đoàn ĐBQH tỉnh Ninh Bình cho biết, Điều 13 của dự thảo Luật quy định: tất cả các hộ, cá nhân kinh doanh sẽ nộp thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập cá nhân theo tỷ lệ % và kê khai doanh thu theo hoá đơn, thay cho cơ chế khoán của Luật Quản lý thuế hiện hành. Khoản 3 Điều 52 của dự thảo Luật quy định nội dung này có hiệu lực thi hành từ ngày 01-1-2026, sớm hơn hiệu lực chung của Luật.
Theo đại biểu Trần Thị Hiền, việc chuyển từ cơ chế khoán sang kê khai doanh thu theo hoá đơn về cơ bản sẽ dẫn đến mức doanh thu cao hơn so với mức khoán của các hộ, cá nhân kinh doanh đang áp dụng hiện nay. Đại biểu cũng lo ngại, với doanh nghiệp siêu nhỏ hoặc hộ kinh doanh dân sinh, ít có hệ thống kế toán, nhân lực mỏng thì việc chuyển sang kê khai ngay còn có thể tạo gánh nặng lớn về chi phí tuân thủ, phải quản lý sổ sách, hóa đơn điện tử...
Vì vậy, đại biểu đề nghị Cơ quan soạn thảo đánh giá tác động cụ thể về sự thay đổi trong nghĩa vụ thuế này đối với các đối tượng bị ảnh hưởng, nghiên cứu kỹ lưỡng quy định, bảo đảm phù hợp với tinh thần Nghị quyết số 68-NQ/TW và mục tiêu cải thiện đời sống cho người dân. Cân nhắc bổ sung quy định chuyển tiếp tại Điều 53 của dự thảo Luật, trong đó xác định giai đoạn chuyển tiếp rõ dành riêng cho hộ kinh doanh và doanh nghiệp siêu nhỏ, có thể trong vòng 1-2 năm đầu được áp dụng phương pháp hỗn hợp: kê khai đơn giản, hoặc cơ quan thuế hỗ trợ khai thay với dữ liệu sẵn có. Đồng thời, cân nhắc, bổ sung quy định về hỗ trợ miễn giảm chi phí tuân thủ (miễn phí hóa đơn điện tử, hỗ trợ kỹ thuật, đào tạo) cho doanh nghiệp nhỏ, doanh nghiệp siêu nhỏ trong giai đoạn đầu chuyển đổi.
Nguồn: Quochoi.vn








![[Infographic] Con số và sự kiện ngày 8-12-2025](/file/e7837c02876411cd0187645a2551379f/122025/thum-con-so-va-sk_20251207210329.jpg?width=400&height=-&type=resize)












Thông tin bạn đọc
Đóng Lưu thông tin