Báo Đồng Nai điện tử
Hotline: 0915.73.44.73 Quảng cáo: 0912174545 - 0786463979
En

Nghề báo và chuyến đi...

Thanh Thúy
09:26, 21/06/2025

Năm xưa khi tôi còn lưỡng lự suy nghĩ có nên hay không bước chân vào nghề báo, chị Kim Tước, Phó tổng biên tập Báo Lao Động Đồng Nai nói vi tôi: Làm báo, em s thy được rt nhiu điu thú v. Em s được tiếp xúc vi rt nhiu người khác nhau, t ông ch tch tnh đến ông chy xích lô, s được đi đến nhiu nơi, biết được rt nhiu chuyn đời, tri qua nhng cung bc cm xúc. Ngày hôm nay s khác vi ngày hôm qua và không ging ngày mai, rt phong phú”. Ngm li nhng tháng năm theo ngh, tôi thy ch phân tích, din gii v ngh tht đúng.

Với nghề báo, tôi đã có nhiều chuyến đi đáng nhớ.

1. Một trong những chuyến đi ấn tượng không thể quên của đời làm báo, đó là chuyến tác nghiệp tại lễ tang Đại tướng Võ Nguyên Giáp tại Quảng Bình. Ấn tượng ngay từ trên chuyến bay Thành phố Hồ Chí Minh - Quảng Bình, hành khách hôm đó hầu hết là người đi viếng Đại tướng, nhiều người còn cẩn thận mang hương, hoa vì sợ Quảng Bình “cháy hàng”. Không khí thành kính, tiếc thương nhàn nhạt lan tỏa trong khoang máy bay.

Và đó cũng là ấn tượng mà tôi đã bắt gặp, cảm nhận suốt trong những ngày diễn ra lễ tang Đại tướng tại Quảng Bình, từ hội trường UBND tỉnh - nơi chính quyền địa phương tổ chức lễ viếng, cho đến lễ viếng của nhân dân ở nơi Đại tướng sinh ra và lớn lên, làng An Xá, xã Lộc Thủy, huyện Lệ Thủy. Tôi đã thấy dòng người thương tiếc không nguôi lẳng lặng xếp hàng dài dằng dặc dưới cơn mưa không ngớt đợi đến lượt vào dâng nén hương tưởng nhớ, thấy giọt nước mắt cố nén vẫn chảy dài của những cựu chiến binh tóc bạc phơ, thấy thành phố Đồng Hới đêm không ngủ trước ngày đón Đại tướng về với đất mẹ. Có đi, có thấy, mới thấm thía hơn 2 từ lòng dân. “Nhân sinh tự cổ thùy vô tử/ Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh”. Ai rồi chẳng một lần trở về cõi hư vô, nhưng chỉ có những bậc “người hiền” mới để lại trong lòng nhân dân sự kính ngưỡng, tiếc thương vô hạn như thế. Bài học ấy tôi không chỉ nhìn trong sách vở nữa, mà đã tự rút ra bằng mắt thấy, tai nghe, tim cảm.

2. Một chuyến đi đáng nhớ khác trong đời làm báo, đó là lần đến Cao Bằng. Lần đó tôi được cơ quan cử theo đoàn đại biểu của tỉnh tham dự Đại hội Thi đua yêu nước toàn quốc lần thứ VIII năm 2010 ở Hà Nội để đưa tin, Trưởng ban Văn hóa - xã hội Đinh Kim Tuấn gợi ý nhân dịp này đến huyện Hà Quảng, nơi có di tích liệt sĩ Kim Đồng và di tích Pác Bó, tôi hớn hở đồng ý ngay.

Chiều 28-12 khi Đại hội Thi đua yêu nước toàn quốc kết thúc, tôi cùng con trai - sinh viên một trường đại học ở Thành phố Hồ Chí Minh vừa bay ra, thêm 2 người bạn mới quen ở đại hội, 4 người chúng tôi ra bến xe Mỹ Đình đón xe giường nằm đi Cao Bằng. 9h tối xe xuất phát, trời tháng Chạp lành lạnh, chúng tôi quấn mền kín mít và ngủ ngon lành trong tiếng xe chạy rầm rì. Cảm giác ngủ còn đang say sưa thì có người kéo chân, bị quấy rầy tôi bực bội mở mắt, mới nhận ra trong xe trống rỗng, tài xế, phụ xe, hành khách đều xuống xe đi hết chỉ còn 4 chúng tôi ngủ lăn quay ở hàng cuối xe và người đánh thức là chị bán hàng rong! Kiểu này nhỡ có người đem chúng tôi đi bán cũng chẳng ai hay.

Từ bến xe Cao Bằng, chúng tôi đón xe đò đi Hà Quảng. Lần đầu tiên tôi mới biết thế nào là giao thông, vận chuyển ở vùng miền núi phía Bắc. Đồng bào dân tộc ở đây đón xe không theo chiều lưu thông như dưới xuôi mà nhà mình ở bên nào thì cứ đứng đấy mà đón, anh lái xe vui tính cười khơ khớ hết dừng bên này đường rồi lại tạt sang bên kia đường đón khách, không chỉ người mà cả gà, vịt, lợn cùng lên theo nên chẳng mấy chốc xe như cái trang trại thu nhỏ, tiếng hành khách chào hỏi, trò chuyện rôm rả lẫn trong tiếng gia súc, gia cầm kêu ỏm tỏi, làm tôi nhớ lại giao thông một thời bao cấp xa xưa. Đó là những âm thanh cuộc sống mà miền xuôi đã không còn, cũng vui vui.

Di tích mộ liệt sĩ Kim Đồng nằm ở thôn Nà Mạ, xã Trường Hà, ngay cạnh đường nhựa, lưng dựa vào núi Tèo Lài. Theo tiếng Nùng, Tèo Lài có nghĩa là con đường có hoa văn. Nhìn từ xa, những thửa ruộng dưới chân núi của Nà Mạ vẽ nên nét ngoằn ngoèo uốn lượn, quả giống như những đường hoa văn trang trí vừa đẹp vừa lạ mắt. Nơi anh nằm tựa lưng vào núi đá quê hương, nhìn xuống cánh đồng Nà Mạ xanh tươi. Mộ xây dựng giản dị, qua khỏi cổng là 14 bậc đá dẫn đến ngôi mộ và bức tượng anh Kim Đồng tươi trẻ trong bộ quần áo dân tộc Nùng, đầu đội mũ nồi, tay trái nâng cao con sáo đá. Chạy ngang 2 bên tượng là 14 trụ bê tông đứng, dáng thanh thoát. Dọc theo 14 bậc đá là 14 phiến bê tông khối hộp chữ nhật đặt nghiêng và 2 bên cổng ra vào có 14 cây bạch đàn sừng sững. Vì sao là những con số 14? Đơn giản bởi đó là số tuổi của anh hùng liệt sĩ Kim Đồng.

Chuyến đi ấy tôi may mắn gặp bà Nông Thị Hộ, năm xưa là cô bé có tật ở chân nên thường được anh Nông Văn Dền (tên của liệt sĩ Kim Đồng) cõng và giúp đỡ. Nghe bà kể chuyện thời bé của Kim Đồng, kể về thời điểm anh hy sinh, đám chúng tôi cứ liên tục lau nước mắt. Năm ấy Bác Hồ vừa về nước, cách mạng mới nhen nhóm trong lòng người, đâu phải đã thành lực lượng lớn mạnh để người người vững tin bước tới, thế nhưng đã có những con người dám khởi đầu, dám tin tưởng, dám dấn thân, dám hy sinh như anh Kim Đồng mới có đất nước hôm nay. Anh nằm đó giữa những ruộng mía xanh tốt, hoa trạng nguyên đỏ thắm hai bên vệ đường, xa xa những tảng hoa mận trắng điểm lấm tấm giữa núi rừng, thôn Nà Mạ bừng sức sống với những ngôi nhà mới mái ngói sắc đỏ hồng thay cho mái rạ nghìn năm cũ...

3. Từ di tích Kim Đồng đi tiếp đến ngã ba Đôn Chương, rẽ phải chừng mươi cây số, núi rừng Pác Bó hiện ra đẹp đến sững sờ. Chúng tôi quyết định đi theo con đường mà năm xưa Bác từ Trung Quốc trở về Cao Bằng, vì thế cả bọn đã trèo lên ngọn núi Phia Sum Khảo, đến cột mốc 108 của biên giới Việt - Trung. Từ chân núi lên đến cột mốc khoảng hơn 2km, ngày nay đã được lót đá thành bậc dễ leo, dễ bước, không còn là đường núi đầy đá tai mèo sắc nhọn lởm chởm như ngày xưa nhưng đường vẫn dốc ngược, nhiều đoạn dựng đứng.

Cột mốc 108 - nơi Bác Hồ đặt bước chân đầu tiên khi trở về nước ngày 28-1-1941, nằm ở lưng chừng núi, hầu như hứng trọn những cơn gió mùa Đông Bắc quất buốt như cắt da, buổi trưa mà những cụm sương muối vẫn đọng la đà trên ngọn cây. Bên phía Trung Quốc, đường gập ghềnh khúc khuỷu, cheo leo hiểm trở, xa xa thấp thoáng những bia mốc biên giới của Trung Quốc nằm chênh vênh lẩn khuất trong dãy núi trùng điệp. Chính trên con đường này năm xưa đôi chân Bác đã băng rừng vượt núi, đôi tay Bác đã nâng nắm đất quê hương lên hôn mà đôi mắt rưng rưng. “Kìa bóng Bác đang hôn lên hòn đất/ Lắng nghe trong màu hồng, hình đất nước phôi thai (Chế Lan Viên). Trong giây phút ấy, có gì thiêng liêng hơn 2 tiếng Tổ quốc...

Ở Pác Bó, Bác Hồ không chỉ sống và làm việc ở hang Cốc Bó, mà mỗi khi địch lùng sục gắt gao, Bác chuyển sang hang Lũng Lạn nằm trên đường lên núi Phia Sum Khảo. Điều kiện sống ở Cốc Bó đã đơn sơ, Lũng Lạn còn khó khăn hơn. Hang khá nhỏ và thấp, nằm khuất sau những bụi cây um tùm nên kín đáo, nhưng cũng vì thế mà nền hang rất ẩm ướt. Không giường chiếu, không chăn ấm, Bác rải lá trên nền hang rồi nằm ngủ. Mùa đông Pác Bó lạnh buốt, có lúc xuống đến 2-30C, Bác cũng chỉ đắp tấm chăn sui sơ sài. Chăn sui là loại chăn làm bằng vỏ cây sui, đồng bào Tày thường lấy vỏ cây sui đập mềm ra, bện thành tấm đắp. Chăn sui cứng, không ấm bằng chăn vải, lại ngứa và có mùi hăng, chỉ có người nghèo mới dùng. Bác là lãnh tụ của cả nước, thế mà vẫn sống như người nghèo. Cả nhóm lại len lén chùi nước mắt. Chuyến đi Hà Quảng năm ấy có thể nói là hành trình nhiều nước mắt nhất trong đời làm báo...

4. Nhìn lại quãng đời làm báo dù không dài của mình, tôi thấy mình đã được quá nhiều: được đi nhiều nơi, tai nghe mắt thấy, được học hỏi không ngừng trong nhiều lĩnh vực, được định hình nhân sinh quan đúng đắn, từ đó trưởng thành hơn rất nhiều. Nói theo kiểu ngôn tình, nếu được một lần nữa trở về, tôi xin vẫn sẽ chọn nghề báo!

 Thanh Thúy

Tin xem nhiều