Kể từ trưa 30-4-1975, hòa bình chính thức được xác lập trên đất nước Việt Nam. Công việc trước mắt của chính quyền cách mạng khá bộn bề, trong đó có nhiệm vụ giáo dục, cải tạo tù, hàng binh. Thiếu tướng Nguyễn Viết Khai, nguyên thành viên đoàn cải tạo tù, hàng binh ở căn cứ Trảng Lớn, nguyên Chính ủy Trường Sĩ quan lục quân 2, kể lại câu chuyện “nối lại hòa bình”.
![]() |
| Hồi ký của thiếu tướng Nguyễn Viết Khai. |
Đầu tháng 5-1975, chúng tôi đang học tại Học viện Chính trị, được giao nhiệm vụ: “Lên đường vào Nam cải tạo tù, hàng binh là sĩ quan quân đội chính quyền Sài Gòn vừa bại trận”. Trước lúc đi, chúng tôi được quán triệt kỹ về công tác địch vận; chính sách hòa hợp dân tộc, nội dung tuyên truyền, giáo dục theo Chỉ thị số 218/CT-TW ngày 18-4-1975 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về công tác tù binh, hàng binh.
Máy bay đáp xuống Sân bay Tân Sơn Nhất, đoàn xe GMC chiến lợi phẩm ta thu được của địch, đón chúng tôi về trại Yên Quyết, Trung tâm Huấn luyện Quang Trung ở Hóc Môn (Gia Định), rồi tập trung về thành Quan Năm, quận Hóc Môn tập huấn, nghe phổ biến tình hình sau giải phóng; nội dung, yêu cầu công tác quản lý, giáo dục, cải tạo tù, hàng binh là sĩ quan quân đội Sài Gòn.
Mỗi lần gặp lại những tù, hàng binh ở đâu đó trong cuộc sống, thấy họ có cuộc sống tốt, không còn mặc cảm, không bị phân biệt đối xử…, tôi luôn cho rằng, đó là nhờ chính sách đúng đắn, nhân đạo của Đảng và Nhà nước ta. Còn chúng tôi, hoàn thành nhiệm vụ đó như kỷ niệm đáng nhớ trong công cuộc nối lại hòa bình.
Đoàn gồm 15 người. Anh Tưởng, Khai, Tơn, Kiên, Vượng, Đàm… do anh Tưởng, đại úy phụ trách. Về đây, còn có 15 người của H12 (Trường Quân chính quân giải phóng miền Nam, tiền thân của Trường Sĩ quan lục quân 2 ngày nay) do anh Tư Tâm, Trưởng khoa Giáo viên chính trị H12, làm trưởng đoàn, phụ trách chung. Chúng tôi được phân công về Trung đoàn 3, Sư đoàn 500 tại căn cứ Trảng Lớn (xã Thái Bình, huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh).
Đây vốn là căn cứ lớn thuộc Sư đoàn 25 (Tia chớp nhiệt đới), do lực lượng địch đồn trú. Hôm chúng tôi đến, sách báo, giấy tờ, quần áo tư trang lính ngổn ngang, hai bên có nhiều ngôi mộ lính chưa mọc cỏ, đất còn mới. Căn cứ này khá kiên cố, rộng khoảng 6km2, bên trong có sân bay dã chiến, máy bay trực thăng, vận tải quân sự C130 có thể lên xuống dễ dàng. Giữa căn cứ là nhà lớn có dòng chữ “Phi trường Tây Ninh/ Quân lực Việt Nam cộng hòa”. Hệ thống công sự, giao thông hào, rào kẽm gai bố trí dày đặc, chia thành nhiều khu nhỏ. Quanh căn cứ bao bọc nhiều lớp rào kẽm gai và nhiều loại mìn.
![]() |
| Một buổi lên lớp tại Căn cứ Trảng Lớn Tây Ninh năm 1975. |
Sau giải phóng, căn cứ Trảng Lớn là nơi ta dùng cải tạo tù, hàng binh, đối tượng quân hàm từ thiếu úy đến thiếu tá, khoảng 13 ngàn người. Họ gồm đủ các sắc lính: bộ binh, pháo binh, cảnh sát, tình báo, biệt phái, sĩ quan tâm lý chiến, được chia thành 3 trung đoàn, mỗi trung đoàn có 5 tiểu đoàn, mỗi tiểu đoàn từ 800-1.000 người. Tiết trời tháng 6, 7-1975 rất nóng, lại phải ở trong nhà lợp tôn, tù binh, hàng binh rất khó chịu, đều cởi trần.
Quán triệt sâu sắc chính sách nhân đạo của Đảng và Nhà nước ta, theo chương trình tuyên truyền, giáo dục tù, hàng binh, được chia thành 10 bài, nội dung chủ yếu ta chỉ ra cho họ thấy rõ ta, địch; vạch rõ âm mưu thực dân kiểu mới của Mỹ, tội ác của Mỹ - ngụy; làm rõ thắng lợi vĩ đại, tất yếu của cách mạng Việt Nam; chính sách hòa hợp, hòa giải dân tộc của Đảng ta, của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam với những người thực tâm hối cải.
Do số tù, hàng binh đông, mỗi tiểu đoàn quản giáo chia 1-2 lớp, mỗi giáo viên đảm nhiệm 3-4 bài giảng. Tôi được phân công 4 bài và giảng đầu để đoàn rút kinh nghiệm. Trước khi giảng, tôi đề nghị được tiếp xúc với đối tượng tù, hàng binh. Tiểu đoàn 1 cho tôi gặp 10 tù binh. Thoạt đầu, họ khá hoang mang. Lo cách mạng trả thù cá nhân, gia đình; sợ tra tấn, đày ải, khổ sai như họ đã từng tra tấn chiến sĩ cách mạng, tù cộng sản trước đây. Qua trao đổi, tôi thấy họ dần cởi mở hơn, và đây không phải “lớp học” thông thường, mà rất “đặc biệt”. Đó là quan hệ giữa người cách mạng và tay sai đế quốc, giữa người chiến thắng và kẻ bại trận.
Từ bước đầu gặp, nắm đối tượng cho thấy, tù, hàng binh sĩ quan hầu hết được đào tạo cơ bản, với ý thức chính trị phản động hằn sâu, không dễ giáo dục, cải tạo trong một sớm, một chiều. Đặc biệt, số này đã từng hưởng lợi ích, bổng lộc của đế quốc Mỹ, gây nhiều tội ác. Nhưng họ cũng là máu đỏ da vàng, hầu hết xuất thân từ lao động. Do lịch sử mà tự nguyện hoặc buộc phải làm tay sai. Khi đã là tù, hàng binh, phải chọn con đường sống. Do vậy, tôi chuẩn bị bài giảng rất kỹ, giảng thử để anh em góp ý, được nhận xét nội dung, phương pháp tốt.
Hôm thực hành giảng buổi đầu, gần 1 ngàn tù, hàng binh và gần 100 giáo viên, cán bộ quản giáo của ta dự, rút kinh nghiệm. Địa điểm lớp học là ngôi nhà lớn do tù, hàng binh Tiểu đoàn 1 mới dựng. Nghe tôi quán triệt mục đích, yêu cầu, giới thiệu nội dung, hầu hết chăm chú lắng nghe, ghi chép. Quan sát lớp học, tôi nhận thấy sự cầu thị, hướng thiện, thầm nghĩ nội dung có sức thuyết phục tốt. Sau buổi giảng hôm ấy và những buổi tiếp theo, được trao đổi, thảo luận giữa các tù, hàng binh, không khí có phần cởi mở hơn, quan sát thấy từng tốp nhỏ trao đổi nhiều hơn. Tôi nghĩ, phần nào họ đã hiểu về chính sách khoan hồng của cách mạng.
Sau ngày giảng đầu, mỗi ngày có thêm câu chuyện, một số tù binh khác dò hỏi nhà cửa có bị tịch thu? Vợ, con, cha, mẹ có bị quản thúc, ngược đãi? Cha là sĩ quan, đã nghỉ hưu, có phải đi cải tạo? Thời gian cải tạo bao lâu… Những băn khoăn đó, chúng tôi lồng vào giải thích trong các buổi giảng. Vì, trong Chỉ thị 218 của Ban Bí thư Trung ương Đảng ta đã quy định rất rõ việc phân loại và chính sách đối xử với từng loại tù, hàng binh như thế nào rồi!
Ngày 21-11-1975, đại tá Đoàn Chương, Phó chính ủy Học viện Chính trị (Bộ Quốc phòng), vào thăm, động viên chúng tôi. Thủ trưởng nói rằng: “Cục Chính trị Miền đánh giá cao những cố gắng của các đồng chí trong công tác binh, địch vận và thực hiện chính sách tù, hàng binh của Đảng”.
Năm 1978, tôi về nhận nhiệm vụ tại Trường Sĩ quan lục quân 2. Lần đi công tác Thành phố Hồ Chí Minh, tôi và anh Hoàng Gia Thưởng đang chờ xe ở công viên Quách Thị Trang, một người đàn ông chạy đến: “Chào thầy!”. Tôi ngỡ ngàng, vì không quen biết anh ta. Tôi hỏi: “Tôi dạy anh bao giờ nhỉ?”. “Dạ, năm 1975, thầy dạy ở Trảng Lớn, Tây Ninh”. Tôi “à!”, rồi động viên anh ta cố gắng làm tốt bổn phận công dân của xã hội mới.
(Lược ghi theo lời kể của thiếu tướng Nguyễn Viết Khai)
Nguyễn Minh Đức






![[Chùm ảnh] Không khí lạnh về, nhiều người mặc áo ấm ra đường vào sáng sớm](/file/e7837c02876411cd0187645a2551379f/112025/49c7751355b8d9e680a95_20251129140528.jpg?width=500&height=-&type=resize)









Thông tin bạn đọc
Đóng Lưu thông tin