“Chín năm làm một Điện Biên/ Nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng” - Tố Hữu. Ngày 7-5-1954 quân và dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm nên chiến thắng “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, kết thúc thắng lợi chín năm cuộc kháng chiến chống thực dân pháp xâm lược, đánh dấu trang sử mới của dân tộc Việt Nam.
Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định mở mặt trận tiêu diệt tập đoàn cứ điểm quân viễn chinh Pháp ở Điện Biên Phủ, tháng 12-1953. Ảnh:T.L |
Đại tướng Võ Nguyên Giáp với quyết định lịch sử
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc Việt Nam - kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Thế nhưng, chỉ 3 tuần sau ngày Việt Nam tuyên bố độc lập, thực dân Pháp đã nổ súng tấn công Sài Gòn (23-9-1945), mở đầu cho cuộc chiến tranh xâm lược nước ta một lần nữa. Với quyết tâm “thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không làm nô lệ” và khát vọng “không có gì quý hơn độc lập, tự do”, nhân dân Việt Nam đã một lòng đoàn kết quanh Đảng, Mặt trật Việt Minh, nhất tề đứng lên hưởng ứng Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quyết tâm bảo vệ nền độc lập của dân tộc với niềm tin tất thắng.
Thực hiện đường lối kháng chiến “toàn dân, toàn diện, lâu dài và dựa vào sức mình là chính”, với vũ khí thô sơ và tinh thần quyết chiến, quyết thắng, quân và dân ta đã lần lượt đánh bại các kế hoạch quân sự của thực dân Pháp, lập nên những chiến công hiển hách như: Việt Bắc (1947), Biên Giới (1950), Hòa Bình (1951-1952), Tây Bắc (1952), Thượng Lào (1953).
70 năm đã trôi qua nhưng tầm vóc vĩ đại và ý nghĩa lịch sử của Chiến thắng Điện Biên Phủ vẫn còn nguyên giá trị. Đặc biệt, tinh thần đoàn kết, tự lực, tự cường, ý chí quyết chiến, quyết thắng và những bài học lịch sử vô cùng quý báu từ Chiến thắng Điện Biên Phủ vẫn vẹn nguyên giá trị, đã, đang và mãi tiếp thêm sức mạnh cho dân tộc ta vững bước trên con đường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Sau gần tám năm tiến hành chiến tranh xâm lược, thực dân Pháp bị thất bại nặng nề. Lợi dụng lúc thực dân Pháp gặp khó khăn, Mỹ đã tìm cách nhảy vào Việt Nam, tăng cường viện trợ, tháng 5-1953 Pháp cử tướng Nava, tham mưu trưởng lục quân khối Trung Âu của NATO, sang làm Cao ủy và Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương thay tướng Xalăng.
Ngay sau khi tìm hiểu chiến trường, kế hoạch quân sự Nava được Hội đồng Quốc phòng Pháp thông qua ngày 24-7-1953 hòng “tìm cách thoát ra khỏi cuộc chiến tranh ở Đông Dương trong danh dự” trong vòng 18 tháng. Điểm mấu chốt của kế hoạch là tập trung lực lượng cơ động chiến lược ở đồng bằng Bắc Bộ. Bằng nhiều biện pháp, địch đã đưa tổng số quân cơ động chiến lược ở Đông Dương lên 84 tiểu đoàn và tập trung về đồng bằng Bắc Bộ 44 tiểu đoàn nhằm giữ vững “vùng đồng bằng có ích” này bằng mọi giá, để giành lại sự chủ động chiến lược xoay chuyển tình thế trên chiến trường Đông Dương, thực hiện đòn tiến công mang tính quyết định khi có điều kiện. Được sự hỗ trợ của đế quốc Mỹ, thực dân Pháp đã xây dựng Điện Biên Phủ thành một cứ điểm mạnh nhất Đông Dương.
Sớm nhận thấy rõ âm mưu, thủ đoạn của thực dân Pháp, tháng 12-1953, Bộ Chính trị quyết định mở Chiến dịch Điện Biên Phủ và thông qua phương án tác chiến “đánh nhanh thắng nhanh”. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Chiến dịch này là một chiến dịch lịch sử của quân đội ta, ta đánh thắng chiến dịch này có ý nghĩa quân sự và chính trị quan trọng”. Khi trao nhiệm vụ cho Đại tướng Võ Nguyên Giáp làm chỉ huy chiến dịch, Người căn dặn: “Trận này rất quan trọng, phải đánh cho thắng, không chắc thắng, không đánh”.
Với trách nhiệm trước Đảng, trước lời căn dặn của Bác Hồ và nhất là trách nhiệm trước sinh mệnh của cán bộ, chiến sĩ trên chiến trường, sau 11 ngày đêm theo dõi, suy nghĩ và tính toán, với nhãn quan thiên tài quân sự, với bản lĩnh và kinh nghiệm trận mạc, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đi đến kết luận: Đánh theo cách này nhất định thất bại và quyết định chuyển sang phương châm “Đánh chắc, tiến chắc”. Đây là một quyết định táo bạo, dũng cảm, một chủ trương kịp thời chính xác trên cơ sở quán triệt tư tưởng chỉ đạo của Bộ Chính trị và Chủ tịch Hồ Chí Minh là “đánh chắc thắng”.
17h5 ngày 13-3-1954, quân đội ta nổ súng tấn công Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Chiến dịch diễn ra qua 3 đợt tấn công. Đợt 1: từ ngày 13-3 đến 17-3-1954, quân ta đánh hai trận then chốt ở cứ điểm Him Lam và Độc Lập, bức hàng cứ điểm Bản Kéo, phá vỡ cửa ngõ phía Bắc của Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ; diệt và bắt sống hơn 2 ngàn quân địch, phá hủy 25 máy bay, xóa sổ một trung đoàn, uy hiếp sân bay Mường Thanh. Đợt 2: từ ngày 30-3 đến ngày 26-4-1954, quân ta đồng loạt tiến công các cứ điểm phía Đông phân khu trung tâm, thắt chặt vòng vây, chia cắt, kiểm soát Sân bay Mường Thanh, hạn chế tiếp viện của địch cho tập đoàn cứ điểm. Đây là đợt tiến công dai dẳng, dài ngày nhất, quyết liệt nhất, gay go nhất, ta và địch giành giật nhau từng tấc đất, từng đoạn giao thông hào. Đặc biệt, tại đồi C1 ta và địch giằng co nhau tới 20 ngày, đồi A1 giằng co tới 30 ngày.
Đợt 3: từ ngày 1 đến 7-5-1954, quân ta đánh chiếm các cứ điểm phía Đông và mở đợt tổng công kích tiêu diệt toàn bộ Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Vào hồi 17h30 ngày 7-5-1954, ta chiếm Sở chỉ huy của địch, tướng De Castries cùng toàn bộ Bộ Tham mưu và binh lính Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ phải ra hàng. Lá cờ “Quyết chiến, quyết thắng” của quân đội ta tung bay trên nóc hầm chỉ huy của địch. Ngay trong đêm đó, quân ta tiếp tục tấn công phân khu Nam, đánh địch tháo chạy về Thượng Lào. Đến 24h cùng ngày, toàn bộ quân địch đã bị bắt làm tù binh.
Trải qua 56 ngày đêm chiến đấu kiên cường, gian khổ, “khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt, máu trộn bùn non”, vượt bao mưa bom, bão đạn, chiến dịch đã kết thúc toàn thắng. Thắng lợi của Chiến dịch Điện Biên Phủ đã làm phá sản hoàn toàn Kế hoạch Nava, đánh bại ý chí xâm lược của thực dân Pháp, buộc chúng phải ngồi vào bàn đàm phán ký với ta Hiệp định Genève, cam kết chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương.
Tầm vóc lịch sử và giá trị thời đại
Thắng lợi của Chiến dịch Điện Biên Phủ là kết quả tổng hòa của nhiều yếu tố, trước hết là đường lối lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, của sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân, của sự kết hợp giữa sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, của đỉnh cao nghệ thuật quân sự Việt Nam.
Thắng lợi vô cùng oanh liệt của Chiến dịch Điện Biên Phủ đã góp phần quyết định kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, mở đầu cho sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên toàn thế giới. Chiến thắng Điện Biên Phủ là một kỳ tích vẻ vang, một bản hùng ca bất hủ, là chiến thắng rực rỡ của chủ nghĩa yêu nước, ý chí bất khuất, kiên cường của dân tộc Việt Nam anh hùng đã được hun đúc qua hàng nghìn năm lịch sử, đồng thời cũng là thắng lợi chung của các dân tộc bị áp bức trên thế giới, đã cổ vũ và góp phần quan trọng vào phong trào đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, tiến bộ xã hội của nhân loại.
Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ có giá trị vô cùng to lớn và mang tầm vóc của thời đại, có ý nghĩa lan tỏa trên khắp thế giới, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đánh giá: “Lần đầu tiên trong lịch sử, một dân tộc bị áp bức đã đánh bại cuộc xâm lược của một đế quốc hùng mạnh, đã giành lại độc lập cho dân tộc, đem lại ruộng đất cho dân cày, đưa lại quyền dân chủ thực sự cho nhân dân”, “Đó là thắng lợi vĩ đại của nhân dân ta, mà cũng là thắng lợi chung của tất cả các dân tộc bị áp bức trên thế giới”.
Chiến thắng Điện Biên Phủ là một trong những mốc son chói lọi bằng vàng trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc, trở thành biểu tượng sức mạnh của dân tộc Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh, là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam, là sức mạnh tinh thần, nguồn cổ vũ lớn lao cho toàn thể Nhân dân ta.
Tiến sĩ Vũ Thị Nghĩa
Thông tin bạn đọc
Đóng Lưu thông tin