Tết Đinh Dậu này là 48 mùa xuân chúng ta vắng Bác. Năm nào cũng vậy, mỗi khi tết đến xuân về trong lòng người dân đất Việt lại bồi hồi nhớ về những mùa xuân bình dị của Bác Hồ, người con vĩ đại của dân tộc.
Tết Đinh Dậu này là 48 mùa xuân chúng ta vắng Bác.
Năm nào cũng vậy, mỗi khi tết đến xuân về trong lòng người dân đất Việt lại bồi hồi nhớ về những mùa xuân bình dị của Bác Hồ, người con vĩ đại của dân tộc. Tính từ năm 1911 khi người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành rời cảng Sài Gòn xuống tàu đi tìm đường cứu nước, đến mùa xuân năm Tân Tỵ 1941 là tròn 30 năm.
Bác Hồ trồng cây tại Ba Vì (Hà Tây) mùng 1 Tết Kỷ Dậu 1969. Ảnh: TƯ LIỆU |
Ba thập niên, một chuyến đi dài nhất trong lịch sử của một con người đã đi khắp năm châu bốn biển để “tìm phương thuốc chữa bệnh cho nước”. Ba thập niên ấy, Người đã đón mùa xuân nơi xứ sở xa xôi và lạ lẫm, thiếu nắng ấm mặt trời, lộc nõn và tiếng chim reo trước hiên nhà. Ở những nơi ấy chỉ có sương mù và băng tuyết. Ở đó, Người luôn nhớ về Tổ quốc, nhân dân và đau đáu ngày về.
Ngày về, ngày hạnh phúc của một người con, của một dân tộc. Ngày ấy đúng vào mùa xuân hoa mơ nở trắng, “Bác đã về đây, Tổ quốc ơi!” (thơ Tố Hữu). Sau đêm đầu tiên nghỉ lại tại nhà một người Nùng, sớm hôm sau chủ nhà Máy Lỳ dẫn ông già và mấy đồng chí vừa về nước. Con đường nhỏ ngoằn ngoèo vắt qua rừng, trườn lên một ngọn núi đá. Từ bờ suối trèo lên phải qua một đoạn dốc khá dài, cây cối rậm rạp, mới lên tới cửa hang. Hang không rộng lắm, có 2-3 ngách nhỏ. Cách đó không xa là con suối nhỏ uốn quanh các tảng đá, rồi đổ xuống phía dưới, tung bọt trắng xóa. Máy Lỳ bảo: “Hang này là Cốc Bó, có nghĩa là đầu nguồn”. Trở về đất Mẹ, ông già vô cùng xúc động. Người thốt lên: “Chúng ta sẽ đặt tên cho ngọn núi này là Núi Các-mác, còn dòng suối đẹp kia, nước trong vắt bắt nguồn từ ngọn núi ra, chúng ta sẽ gọi là Suối Lê-nin”.
Thế đó, mùa xuân đầu tiên Bác trở về Tổ quốc.
Từ mùa xuân ấy cho đến mùa xuân cuối cùng trong cuộc đời “vô cùng cao thượng và phong phú, vô cùng trong sáng và đẹp đẽ”, Người đã đón những cái tết vô cùng bình dị. Ngày tết, mỗi chúng ta quây quần bên gia đình, người thân trong giờ phút giao thừa thiêng liêng, thắp nén nhang thơm lên bàn thờ tiên tổ, lắng nghe Thơ chúc Tết của Bác Hồ. Còn vị Chủ tịch nước kính yêu vừa đi chúc tết đồng bào và chiến sĩ trở về. Bác đến với những xóm thợ nghèo, thăm những người lao động và lặng người khi gặp một chị lao công bật khóc khi biết đến thăm! Người ân cần bảo: “Bác không đến thăm những người như mẹ con thím thì thăm ai?”.
Đã thành một nét đẹp truyền thống, cứ vào dịp tết, đồng bào, chiến sĩ cả nước lại hồi hộp đón thơ Bác chúc tết mừng xuân. Thơ Bác không chỉ là tấm lòng, tình cảm mà còn là những dự báo về thời cơ cách mạng, cổ vũ toàn dân, toàn quân thi đua sản xuất và chiến đấu.
Bác Hồ với các cháu thiếu nhi. Ảnh: TƯ LIỆU |
Tết cuối cùng trong cuộc đời - Tết Kỷ Dậu 1969, Bác vẫn dành cho cháu con bài thơ chúc tết đầy hào sảng, như mệnh lệnh tiến công, như hồi kèn xung trận. Bác viết bài thơ này đúng vào ngày 1-1-1969. Bấy giờ, sức khỏe của Người đã rất yếu. Nhà văn Sơn Tùng kể lại: Vào một ngày chủ nhật giáp tết, 26-1-1969, Bác lên cơn đau. Các tấm rèm nan tre nhuộm xanh đều thả xuống quanh bốn phía Nhà sàn, nơi Bác sống và làm việc. Thủ tướng Phạm Văn Đồng từ bên kia vườn Phủ Chủ tịch đi sang với Bác lúc đau đớn này. 4 giờ chiều, Hội đồng bác sĩ chẩn bệnh cho Bác… Thủ tướng Phạm Văn Đồng ở lại với Bác đến tận tối, dùng bữa với Bác. Sáng hôm sau, Bác nói với đồng chí Vũ Kỳ chuẩn bị ghi tiếng Bác đọc thơ chúc mừng năm mới đến đồng bào, chiến sĩ. Bác gọi bác sĩ Mẫn cùng ngồi với đồng chí Vũ Kỳ để nghe giọng nói xem đã bình thường, rõ tiếng chưa, nếu chưa thì để Bác luyện giọng tiếp. Bác sĩ Mẫn rót nước trà cam thảo để Bác thấm giọng, Bác đọc: Năm qua thắng lợi vẻ vang… Mọi người vui hẳn lên khi thấy giọng Bác gần như bình thường. Bác sĩ Mẫn nói nhỏ với đồng chí Vũ Kỳ: “Năm con gà này, Bác đã tiên tri Mỹ cút ngụy nhào, Bắc - Nam sum họp. Vậy là ngày quét sạch giặc ngoại xâm của dân tộc ta chắc không còn xa nữa”.
Cũng trong cái tết cuối cùng ấy, Bác Hồ đã thực hiện nghĩa vụ Tết trồng cây của một công dân. Sáng mùng 1 Tết, Người về Vật Lại, huyện Ba Vì, Hà Tây (nay là Hà Nội) cùng người dân vùng bán sơn địa trồng cây. Hôm ấy, Bác mặc bộ quần áo nâu, khoác áo ka ki, đội mũ mềm như một cụ già thôn quê. Bác hỏi mọi người: “Bác lên đây ăn tết, các cô, các chú có đồng ý không?”. Mọi người đồng thanh đáp: “Có ạ!”. Bác hỏi: “Thế có bánh chưng không?”, “Thưa Bác, có ạ!”. Bác lại hỏi: “Có thật không?”. Cả mấy Bác cháu cùng cười vui.
Bác đi vòng qua mấy tấm chiếu hoa trải ra khu đất rộng sườn đồi, đến thảm cỏ ngồi xuống, hỏi chuyện làm ăn của bà con.
Khi đồng chí Bí thư Huyện ủy Ba Vì biếu Bác 2 khóm sắn củ to, Bác hỏi vui: “Gốc sắn bao nhiêu cân?”, “Thưa Bác, 15 cân ạ!”. Bác cười: “Ở Vĩnh Phúc có gốc sắn 30 cân cơ.” Gần trưa, Bác và mọi người trồng cây đa ở ngay sườn đồi cùng các cụ phụ lão. Cụ Cát Văn Trường có 3 con đi chiến trường miền Nam được đứng bên Bác vun đất vào gốc cây. Bác tưới nước, quay sang căn dặn các cán bộ: “Phải chú ý trồng cây nào sống cây ấy. Cây chết là lãng phí tiền của của nhân dân”.
Buổi trưa, Bác cùng đoàn cán bộ mang cơm nắm muối vừng ra mấy Bác cháu cùng ăn. Rồi Bác tranh thủ chợp mắt trên đồi cây. Vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc ngả mình trên thảm cỏ, giống như bất cứ một lão nông đất Việt nào, lại giống như một ông Tiên ở trong cổ tích.
Nhớ về cái tết của “ông Tiên” ấy, chúng ta không quên những cái tết đáng nhớ khác. Đó là mùa xuân năm 1923 trên đất Pháp, Người viết truyền đơn cổ động mua báo Le Paria. Đó là mùa xuân năm 1924, Người đến Matxcơva, và lần đầu được đọc Luận cương của V.Lênin, cái cẩm nang cho con đường giải phóng dân tộc khỏi đọa đầy, đau khổ. Đó là mùa xuân 1930, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc chủ trì hợp nhất ba Đảng, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Đó là mùa xuân năm 1959, trên đất nước Liên Xô vĩ đại, Bác dặn các cháu thiếu nhi: “Tết bây giờ khác trước rồi. Mùa xuân của chúng ta không phải là 3 tháng mà là dài hơn, gia đình họ hàng của ta là cả gia đình quốc tế vô sản”...
Tấm thiệp chúc tết của Bác Hồ năm 1956 |
Và xuân nay, xuân thời Đổi mới. Đất nước đã tiến những bước dài trên đường thiên lý, sánh vai cùng bè bạn năm châu. Thời cơ lớn đang chờ chúng ta, nhưng thách thức còn nhiều. Thời khắc này mọi người hãy cùng nhắc một câu thơ trong bài Thơ chúc Tết của Bác Hồ xuân Mậu Thân 1968: Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua.
Xuân sau phải hơn xuân trước. Điều mong muốn ấy phù hợp với quy luật thiên nhiên, quy luật tiến hóa của loài người. Không gắng giỏi vượt lên chính mình, vượt lên phía trước nghĩa là dừng lại, là tụt hậu. Hãy bình tâm và hãy dũng cảm, “mỗi khi lòng ta xao xuyến rung rinh” hãy nhìn lên ánh mắt nhân từ của Bác.
Thơ chúc Tết Mậu Thân của Chủ tịch Hồ Chí Minh năm 1968 |
Hải Hà