Để bảo đảm niềm tin trong giao dịch, các bên thường đặt cọc một khoản tiền nhất định với thỏa thuận nếu bên đặt cọc thất hứa thì mất số tiền đặt cọc; ngược lại, bên nhận cọc không giữ chữ tín thì ngoài trả lại tiền cọc đã nhận, còn bị phạt một khoản tiền tương ứng.
![]() |
| Thu hoạch sầu riêng tại một nhà vườn ở xã Sông Nhạn (huyện Cẩm Mỹ). Ảnh minh họa: Đ.Phú |
Điều này chỉ dễ dàng thực hiện nếu các bên giao dịch bằng văn bản với các nội dung, điều khoản cụ thể, rõ ràng. Riêng với giao dịch bằng lời nói (miệng) thì không dễ, vì thiếu chứng cứ.
Đặt cọc không cần giấy tờ
Ông N.B.N. (ngụ xã Mã Đà, huyện Vĩnh Cửu) cho biết, cách đây mấy tháng, ông V.C.T. (ngụ huyện Định Quán) có đặt cọc trước 5 triệu đồng để giành mối mua 1 hécta xoài của ông N. khi vào mùa thu hoạch. Tuy nhiên, đến mùa thu hoạch, ông T. không đến mua xoài nhà ông N. như đã cam kết. Dù nhiều lần ông N. gọi điện thoại hối thúc ông T. tới cắt xoài, nhưng ông T. vẫn hứa lần, hứa lượt, làm cho xoài của ông N. chín, rụng nhiều; giá thị trường giảm chỉ còn 3-4 ngàn đồng/kg.
“Vậy tôi có quyền lấy số tiền 5 triệu đồng mà ông T. đã đặt cọc và kêu người khác đến mua xoài hay không? Tôi với ông T. chỉ giao dịch bằng lời nói, không có ai chứng kiến” - ông N. thắc mắc.
Khi sầu riêng chưa tới vụ thu hoạch, nhiều thương lái tới vườn của ông H.V.L. (ngụ xã Sông Nhạn, huyện Cẩm Mỹ) đề nghị đặt cọc để được quyền mua. Do chưa có kinh nghiệm trong giao dịch, ông H.V.L. đồng ý nhận 15 triệu đồng tiền cọc để bán trái trong 7 sào sầu riêng cho ông Đ.Q. (ngụ cùng địa phương). Vì ông Đ.Q. thu hoạch kéo dài, loại bỏ sầu riêng loại 1 sang loại khác khá nhiều khiến ông H.V.L. bức xúc muốn bỏ tiền cọc, không bán sầu riêng cho ông Đ.Q. nữa.
“Lúc giao dịch đặt cọc, tôi và ông Đ.Q. chỉ nói miệng. Trong trường hợp này, nếu tôi muốn bỏ tiền cọc, không cho ông L. mua sầu riêng nữa thì xử lý sao?” - ông H.V.L. hỏi.
Điều 328 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định, đặt cọc là việc một bên (sau đây gọi là bên đặt cọc) giao cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận đặt cọc) một khoản tiền hoặc kim khí quý, đá quý hoặc vật có giá trị khác (sau đây gọi chung là tài sản đặt cọc) trong một thời hạn để bảo đảm giao kết hoặc thực hiện hợp đồng. Trường hợp hợp đồng được giao kết, thực hiện thì tài sản đặt cọc được trả lại cho bên đặt cọc hoặc được trừ để thực hiện nghĩa vụ trả tiền; nếu bên đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng thì tài sản đặt cọc thuộc về bên nhận đặt cọc; nếu bên nhận đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng thì phải trả cho bên đặt cọc tài sản đặt cọc và một khoản tiền tương đương giá trị tài sản đặt cọc, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
“Điều này có nghĩa là khi các bên tiến hành giao dịch và có thỏa thuận cọc, một bên không giữ chữ tín thì bị mất cọc, phạt cọc. Còn trong các trường hợp đặt cọc nhưng không thể hiện bằng giấy tờ thì khi một bên “lật kèo” cũng không dễ phạt cọc” - luật sư Nguyễn Đức (Đoàn Luật sư tỉnh) cho hay.
Luật sư LÊ ĐÌNH HƯNG (Đoàn Luật sư tỉnh) bày tỏ, một khi các bên chọn hình thức giao dịch bằng lời nói (miệng), cần lưu ý một số nội dung như: nêu rõ ràng với nhau về các trường hợp xảy ra tranh chấp, mức bồi thường thiệt hại; ghi âm, quay phim và tìm người làm chứng khi thỏa thuận nội dung hợp đồng miệng; giữ lại các hóa đơn hoặc các giấy tờ có liên quan đến giao dịch…
Không dễ phạt cọc khi giao dịch bằng lời nói
Điều 119 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định, giao dịch dân sự được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể. Trường hợp luật quy định giao dịch dân sự phải được thể hiện bằng văn bản có công chứng, chứng thực, đăng ký thì phải tuân theo quy định đó.
Luật sư Nguyễn Đức phân tích, căn cứ vào quy định nêu trên thì giao dịch bằng lời nói (miệng) có đặt cọc trong việc mua xoài giữa ông N.B.N. với ông V.C.T. và mua bán sầu riêng giữa ông H.V.L. với ông Đ.Q. đều hợp pháp, được pháp luật công nhận. Tuy nhiên, do giao dịch giữa các bên bằng lời nói và chỉ hai bên biết về nội dung giao dịch, thiếu tài liệu chứng cứ chứng minh như: ghi âm, bút tích, nhân chứng… Do đó, chỉ cần một bên chối bỏ, không thừa nhận vấn đề đã giao kết thì bên kia rất khó tìm chứng cứ chứng minh đó là sự thật.
“Bởi vì, việc cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự thuộc nghĩa vụ của đương sự. Theo đó, tại khoản 1, Điều 6 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định, đương sự có quyền và nghĩa vụ chủ động thu thập, giao nộp chứng cứ cho tòa án và chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp” - luật sư Nguyễn Đức nhấn mạnh.
Cũng theo luật sư Nguyễn Đức, rắc rối của giao dịch bằng lời nói (miệng) chính là không có văn bản ghi nhận các nội dung thỏa thuận. Vì vậy, khi khởi kiện, tòa án yêu cầu cung cấp chứng cứ, các đương sự không có giấy tờ để cung cấp thì vụ việc sẽ bị tòa án trả lại đơn, không thụ lý giải quyết. Hoặc nếu tòa án thụ lý nhưng vì chứng cứ rất yếu thì quyền lợi của bên khởi kiện sẽ không đạt được mục đích như mong muốn.
Cho nên, việc bên thu mua hoặc bên bán không thực hiện giao dịch, “lật kèo” thì rất khó phạt cọc, chiếm giữ tiền cọc của nhau. Muốn phạt hay chiếm giữ tiền cọc của nhau thì các bên cần phải gặp nhau một lần nữa để thương lượng. Khi ấy, việc thương lượng phải lập thành văn bản ghi nhận kết quả thương lượng. Chẳng hạn như: mất tiền cọc bao nhiêu, phạt cọc ra sao, bồi thường vì chậm thu mua làm trái rụng gây thiệt hại cho chủ vườn như thế nào, hoặc chậm thu mua vì lý do tránh thu mua bị thua lỗ, trái không bán được sẽ ùn ứ gây hư hỏng…
Đoàn Phú




![[Chùm ảnh] Không khí lạnh về, nhiều người mặc áo ấm ra đường vào sáng sớm](/file/e7837c02876411cd0187645a2551379f/112025/49c7751355b8d9e680a95_20251129140528.jpg?width=500&height=-&type=resize)









Thông tin bạn đọc
Đóng Lưu thông tin