Báo Đồng Nai điện tử
Hotline: 0915.73.44.73 Quảng cáo: 0912174545 - 0786463979
En

Hơn lúc nào hết, con người cần đến khoa học xã hội và nhân văn

08:12, 27/12/2014

Sinh ra tại xã Hóa An, TP.Biên Hòa và là cựu học sinh Trường THPT Ngô Quyền, PGS.TS Võ Văn Sen từng đi tu nghiệp tại Đại học Harvard (Hoa Kỳ), giảng dạy ở Đại học Nagoya (Nhật Bản) với vị trí giáo sư thỉnh giảng và được Đại học Chosun (Hàn Quốc) phong tiến sĩ danh dự.

Sinh ra tại xã Hóa An, TP.Biên Hòa và là cựu học sinh Trường THPT Ngô Quyền, PGS.TS Võ Văn Sen từng đi tu nghiệp tại Đại học Harvard theo chương trình trao đổi học giả với Hoa Kỳ, từng giảng dạy ở Đại học Nagoya (Nhật Bản) với vị trí giáo sư thỉnh giảng và được Đại học Chosun (Hàn Quốc) phong tiến sĩ danh dự. PGS.TS Võ Văn Sen hiện là Hiệu trưởng Trường đại học khoa học xã hội và nhân văn TP.Hồ Chí Minh - một trong 2 trường lớn nhất Việt Nam về khoa học xã hội và nhân văn với hàng ngàn sinh viên mỗi năm, đến từ 64 tỉnh, thành và 73 quốc gia.

Tuy vậy, ông thừa nhận các ngành thiên về khoa học xã hội, nhân văn bị xem nhẹ hơn những ngành về khoa học - kỹ thuật hay tự nhiên - là một câu chuyện không phải của riêng Việt Nam, đó là câu chuyện của cả thế giới. Ông nói, sau khi đã đạt những đỉnh cao về khoa học - kỹ thuật, hơn lúc nào hết con người cần đến sự điều chỉnh của khoa học xã hội và nhân văn để trả lời những câu hỏi căn bản nhất.

Con người cần những tình cảm căn bản

* Là người đứng đầu một trường đại học đào tạo khoa học xã hội nhân văn lớn nhất miền Nam, suy nghĩ của thầy về vai trò của khoa học xã hội nhân văn trong xã hội hiện nay thế nào?

- Dưới sự tác động của cách mạng khoa học - kỹ thuật, nhu cầu đi sâu vào các ngành kỹ thuật hay tự nhiên là rất lớn. Điều này là chính đáng. Song, nhược điểm là khi lao vào sâu, sùng bái kỹ thuật thì khoa học xã hội nhân văn bị xem nhẹ. Nhưng thế kỷ 21 đã được nhìn nhận như là thế kỷ của khoa học xã hội và nhân văn khi con người đứng trước những vấn đề, câu hỏi hóc búa mà chỉ có khoa học xã hội nhân văn mới giải đáp nổi. Chẳng hạn như những câu hỏi về công nghệ biến đổi gen. Khi khoa học có thể “nhân bản” con người hàng loạt thì điều đó tác động ra sao, những bản copy đó được xem là gì? Cảm xúc của xã hội ra sao và đâu là giới hạn để khoa học - kỹ thuật không quay trở lại hủy hoại chính cuộc sống con người?

Con người cần những tình cảm hết sức căn bản để sống và tồn tại, như tình mẹ. Anh có thể tạo ra một phiên bản người thông minh, khéo léo, hoàn hảo, nhưng anh có xem đó là một con người bình thường nếu không có tình mẹ và những tình cảm khác? Khoa học - kỹ thuật không thể trả lời được câu này và nhiều thứ sẽ sụp đổ: cá nhân, gia đình, xã hội. Vậy giới hạn nào cho khoa học - kỹ thuật? Chủ nghĩa nhân văn, đạo đức, tôn giáo... sẽ trả lời.

* Nhưng sẽ có lý giải, khoa học - kỹ thuật cần thiết cho phát triển một quốc gia. Bằng chứng là rất nhiều quốc gia đã phát triển rất mạnh nhờ vào đó. Vậy chỗ đứng nào cho khoa học xã hội nhân văn, thưa thầy?

- Người ta nghĩ rằng Nhật Bản phát triển như ngày nay là do chú trọng khoa học - kỹ thuật. Thực tế, đó chỉ là một phần. Nhật Bản đi lên từ nền tảng khoa học xã hội và nhân văn rất lớn. Từ thời Minh Trị Thiên Hoàng, những nhà cải cách nổi tiếng như Fukuzawa Yukichi (tác giả Khuyến học), đã chủ trương kết hợp văn minh, văn hóa phương Tây với đạo đức phương Đông. Họ phát triển cân bằng giữa giáo dục và đạo đức học. Nhiều sự sụp đổ của các chế độ xã hội hay cả một dân tộc đến từ chính sự sụp đổ quan hệ giữa người và người, sâu xa hơn nhiều so với những nguyên nhân bề ngoài như khoa học, chiến tranh hay kỹ thuật.

Còn những kỷ niệm thuở thiếu thời ở Biên Hòa thì đó là những ngày tươi đẹp nhất trong cuộc đời tôi. Tôi là cựu học sinh Ngô Quyền. Lớp tôi thời đó gần 60 người, nay đi khắp thế giới. Có năm tôi đi công tác ở San Jose (Mỹ) và gặp lại bạn thời trung học, chúng tôi thức cả đêm chỉ để nói chuyện về thời còn là học sinh Ngô Quyền, đầy xúc động.

* Câu chuyện cụ thể tại Việt Nam thì sao?

- Với câu chuyện của Việt Nam, sự phát triển khách quan của kỹ thuật, hạ tầng, thay đổi đường lối phát triển kinh tế hay đơn giản hơn là chuyện cơm áo gạo tiền dễ làm xã hội trọng kỹ thuật, trọng vật chất, xem nhẹ những ngành học thiên về con người, xã hội. Điều này dễ thấy từ học sinh phổ thông, dĩ nhiên phần nhiều do giáo trình và giảng dạy chưa đạt đến độ thu hút, hấp dẫn. Song ngay cả khi đạt đến điều đó, khuynh hướng này vẫn không dễ dàng xóa bỏ. Điều đó không sai khi đất nước còn cần đến tất cả những bộ môn ấy. “Phú quý sinh lễ nghĩa”, khi đất nước còn khó khăn chúng ta đành chấp nhận, nhưng khi đã vượt lên trên khó khăn giàu có hơn, thì khoa học xã hội và nhân văn trở thành một nhu cầu bức thiết.

 Đồng Nai như một vùng đất linh thiêng

* Giới trẻ Việt Nam vẫn “trọng” các ngành kỹ thuật hay kinh tế hơn các ngành xã hội. Thậm chí rất nhiều chê cười, phê phán những ý tưởng như thi môn Văn để chọn bác sĩ. Thầy nhìn nhận điều này ra sao?

- Rõ ràng khoa học xã hội và nhân văn cùng nhiều bộ môn của nó góp phần trực tiếp vào việc hình thành thế giới quan, nhân sinh quan và đạo đức con người. Có người hỏi tại sao thi y khoa lại thi môn Văn? Đó không phải là điều vô lý, vì người bác sĩ không chỉ cần đến tay nghề, họ còn cần đến tấm lòng, tình thương và sự sẻ chia nỗi đau với người bệnh. Đó là động cơ thôi thúc người bác sĩ tìm tòi, hướng động cơ phát triển nghề nghiệp vào những điều có lợi cho con người.

Dĩ nhiên, chúng ta hiểu người ta thấy thi y khoa chọn môn Văn là vô lý, cũng còn vì cách dạy và cách học môn Văn hiện tại còn nhiều bất cập. Song cũng không loại trừ nhiều suy nghĩ cho rằng, y khoa chỉ cần giỏi môn Sinh, Hóa, không cần đến những môn học hay quan niệm nào khác. Với tôi, đó là cái nhìn ngắn hạn.

* Nhiều ý kiến bi quan cho rằng, vì quá trọng vật chất nên nhiều người Việt Nam, đặc biệt là những người trẻ ngày nay trở nên thực dụng và có nhiều người sống thiếu sự tử tế. Thầy có nghĩ thế không?

- Tôi không có cảm giác buồn, trái lại tôi tự tin và lạc quan hơn về giới trẻ. Nếu họ có những suy nghĩ hay chọn lựa khác thế hệ chúng tôi, thì cần hiểu đó là những khác biệt xuất phát từ sự phát triển. Đất nước đang thay đổi nhiều, dĩ nhiên phải thay đổi suy nghĩ. Họ thực tế hơn vì đời sống hiện đại đòi hỏi tính thực tiễn. Song nếu đi đến chủ nghĩa thực dụng là chuyện khác. Hai khái niệm này khác nhau. Tôi ủng hộ suy nghĩ thực tế của các em, nhưng tôi cũng thấy cần tránh cho các em việc sa vào chủ nghĩa thực dụng.

Xã hội nào cũng có người thực dụng. Không phải chỉ thời nay mới có. Thời bao cấp, người ta nói về một xã hội lý tưởng, cố gắng thực thi nó, vẫn có những người “tranh thủ” từng cân thịt, từng chiếc lốp xe, thì thời này cũng thế, kẻ tốt người xấu đan xen. Vì vậy, tôi không buồn hay bi quan. Sự đấu tranh là bình thường, lúc nào cũng hiện diện và phải chấp nhận nó.

* Xuất thân là một giảng viên ngành lịch sử, theo nghề giáo rất nhiều năm, nhận định của thầy về học và dạy môn Sử? Tại sao đã kêu gọi cải cách rất nhiều năm nhưng đâu vẫn hoàn đấy?

- Về nhận thức, từ lãnh đạo, đội ngũ trí thức đều nhận thức rõ, nhưng triển khai thực tế chưa được nhiều. Học sinh trung học Việt Nam hiện tại học Lịch sử 1-2 tiết/tuần. Học sinh Mỹ học 6 giờ/tuần, trong khi khối lượng kiến thức và bề dày lịch sử Việt Nam nhiều hơn hẳn. Vấn đề nằm ở 2 điểm chính, cả nội dung lẫn cách dạy. Dạy cái gì? Dạy theo phương pháp nào? Theo tôi, cần cập nhật kiến thức theo cái mới, tinh lọc kiến thức, đừng bắt học sinh ngốn quá nhiều kiến thức. Cách dạy thì lấy học sinh làm trọng tâm. Nếu giữ mãi cách dạy đọc - chép phiến diện một chiều thì khó tiến bộ, học sinh không thẩm thấu, thậm chí bị dị ứng tâm lý. Chú trọng hơn sự phản biện của học sinh: thảo luận, nghiên cứu, phán đoán, sưu tầm, phản biện... sẽ giúp học sinh thấy hứng thú hơn.

Thay đổi phải từ trên xuống, không thể làm ngược lại. Nhận thức ở trên thay đổi thì dưới mới chuyển hóa.

* Vừa là một người Đồng Nai, vừa là một người nghiên cứu lịch sử - Đồng Nai thầy cảm nhận ra sao?

- Tôi sinh ra ở Đồng Nai, cha mẹ vẫn còn ở đó. Đồng Nai trong tôi, ngoài những kỷ niệm thiếu thời thì sau này khi nghiên cứu về lịch sử, tôi còn biết về Đồng Nai như một vùng đất linh thiêng, là một trong những nơi người Việt đến đầu tiên ở phía Nam, khởi đầu của cả vùng Nam bộ và là nơi duy nhất được tôn danh “hào khí Đồng Nai”. Đất nước không thể vẹn tròn nếu chỉ dừng lại ở miền Bắc, miền Trung. Cả một vùng đất mới, sự bổ sung văn hóa, văn minh dân tộc mà Đồng Nai là nơi khởi đầu. Tôi tự hào về điều đó khi mình sinh ra, lớn lên ở một vùng đất có bề dày lịch sử, linh thiêng đó.

* Xin cảm ơn thầy!

Kim Ngân (thực hiện)

 

 

 

Tin xem nhiều