Chứng kiến cảnh nước mất, nhân dân ta phải sống lầm than dưới ách thống trị của bọn thực dân Pháp và bè lũ tay sai, tháng 4-1948, chàng thanh niên tuổi 17 Nguyễn Thanh Tùng đã theo cách mạng, làm lính Vệ Quốc Đoàn...
Thiếu tướng, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Nguyễn Thanh Tùng. |
Chứng kiến cảnh nước mất, nhân dân ta phải sống lầm than dưới ách thống trị của bọn thực dân Pháp và bè lũ tay sai, tháng 4-1948, chàng thanh niên tuổi 17 Nguyễn Thanh Tùng (còn gọi là Chín Tùng, quê tỉnh Tây Ninh) đã theo cách mạng, làm lính Vệ Quốc Đoàn trực tiếp chiến đấu trên chiến trường Đông Nam bộ.
Năm 1954, ông Chín Tùng lên đường tập kết ra Bắc và được biên chế về Đại đội 21, Sư đoàn 338. Ông được cử đi học ở Trường Lục quân, tham gia khóa huấn luyện đặc công rồi trở về cùng đơn vị hành quân vào Nam chiến đấu từ năm 1961.
* Trở về giải phóng quê hương
Về đến Chiến khu Mã Đà, đơn vị của ông nhận quân số và trang bị vũ khí để tổ chức các trận đánh nhỏ, từng bước làm quen với đối tượng tác chiến cũng như hiểu biết thêm chiến trường.
Trong những năm Mỹ trực tiếp đưa quân tham chiến trên chiến trường miền Nam, cuộc chiến đấu của các đơn vị giải phóng quân càng trở nên khốc liệt. Đơn vị của ông Chín Tùng phải liên tục di chuyển đánh địch trên các chiến trường: Bình Châu, Xuyên Mộc, Bình Giã, Đồng Xoài… Lúc này, ông được đề bạt giữ chức Tiểu đoàn trưởng.
Kết thúc chiến dịch Xuân Mậu Thân năm 1968, ông hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao và đầu năm 1969 được đề bạt giữ nhiệm vụ Phó phòng Đặc công Miền cùng với cấp hàm đại úy. Ở cương vị mới, ông càng có điều kiện phát huy sở trường lối đánh đặc công đã học.
Thời điểm đó, đặc công của ta đã phát triển, hoạt động tác chiến theo lối đánh đặc công đạt hiệu quả cao. Do vậy, cấp trên đã chỉ đạo ông tổ chức điều nghiên căn cứ Technique, một căn cứ liên hợp quan trọng của Lữ đoàn số 1, Sư đoàn 1 “Kỵ Binh Bay” và Bộ Chỉ huy Sư đoàn “Anh Cả Đỏ” của Mỹ cách tỉnh lỵ Bình Long 2,5km. Trong căn cứ có khoảng 4 ngàn lính Mỹ và hàng trăm xe tăng, xe bọc thép, máy bay trực thăng, pháo hạng nặng…
Qua nghiên cứu thấy địch để lộ nhiều sơ hở, ông xin lệnh tấn công. 0 giờ ngày 12-5-1969, trên 200 cán bộ, chiến sĩ thuộc Tiểu đoàn 5 đặc công do ông Chín Tùng chỉ huy chia thành 9 mũi bí mật xâm nhập vào căn cứ Technique rồi dùng thủ pháo, lựu đạn diệt các mục tiêu đã định trước.
Sau 25 phút chiến đấu, quân ta đã đánh thiệt hại nặng Sở Chỉ huy Lữ đoàn và Sở Chỉ huy Tiểu đoàn địch, diệt và làm bị thương khoảng 1,1 ngàn tên địch, phá hủy 21 máy bay, 105 xe quân sự, 20 khẩu pháo, 12 súng cối, 13 khẩu đại liên, 2 kho xăng dầu…, làm cho căn cứ này tê liệt hoạt động trong 3 ngày liền.
Bị trận đòn đau này, kế hoạch hành quân của quân Mỹ ở Bình Long, Phước Long bị phá vỡ. Lữ đoàn 3 không vận Mỹ gần như tê liệt sức chiến đấu buộc phải điều về Biên Hòa bổ sung quân số và trang bị, một lữ đoàn khác thuộc Sư đoàn “Anh Cả Đỏ” của Mỹ lên thay.[links(right)]
Tiếp sau đó, lợi dụng tinh thần quân Mỹ còn đang hoang mang, Tiểu đoàn 5 tiếp tục được cấp trên giao nhiệm vụ đánh căn cứ Technique lần 2.
Vẫn lối đánh đặc thù của binh chủng đặc công bất ngờ, nhanh chóng và chính xác, lúc 0 giờ ngày 6-6-1969, các chiến sĩ đặc công Tiểu đoàn 5 do ông Chín Tùng chỉ huy đã bí mật vượt qua các chướng ngại vật, luồn sâu vào bên trong tiếp cận các mục tiêu đã định. Trận đánh đảm bảo được yếu tố bất ngờ, diễn ra nhanh chóng nên mức độ thiệt hại của chúng lần này nặng nề hơn. Quân ta loại khỏi vòng chiến đấu gần 1 ngàn tên Mỹ, phá hủy 2 trận địa pháo 175 ly, 2 trận địa cối, 12 máy bay, 30 xe quân sự, 30 lô cốt, 50 hầm ngầm và hàng chục trại lính, nhà kho…
Sau 2 trận thắng oanh liệt ở căn cứ Technique, đơn vị do ông Chín Tùng chỉ huy lại được cấp trên giao nhiệm vụ đánh vào căn cứ Sư đoàn 25 Mỹ ở Trảng Lớn (Tây Ninh), đánh Trung tâm truyền tin của địch trên núi Bà Đen (Tây Ninh) và các hậu cứ lớn của địch ở Sài Gòn, Biên Hòa… Đơn vị của ông tham gia trận đánh nào cũng giành được những chiến công xuất sắc.
Trong Chiến dịch Nguyễn Huệ năm 1972, ông được giao nhiệm vụ Đoàn trưởng Đoàn Đặc công 113. Đoàn Đặc công 113 lúc ấy gồm có Tiểu đoàn 9 đang hoạt động ở Phú Lợi (Bình Dương) và Phân khu Biên Hòa. Lực lượng Tiểu đoàn 1 và Tiểu đoàn 2 của Biên Hòa nhiều năm bám trụ ở đây hoạt động tốt nhưng bị tổn thất về quân số nên dồn thành một tiểu đoàn.
* Đánh thủng “dạ dày” quân Mỹ
Ngày 3-6-1972, Trung đoàn Đặc công 113 chính thức ra mắt bên bờ suối Bà Hào, Chiến khu Đ. Bộ Tư lệnh Miền đã biệt phái đồng chí Trần Công An (Hai Cà) giúp đỡ lực lượng để bám, nắm địa bàn và làm cầu nối với địa phương.
Ngay sau khi ra mắt đơn vị, ông Chín Tùng nghĩ ngay đến kế hoạch đánh sân bay Biên Hòa và trao đổi với đồng chí Phan Văn Trang (Bí thư tỉnh Biên Hòa lúc ấy) nhờ huy động đội ngũ cán bộ, nhân viên dân chính kết hợp với Trung đoàn Đặc công 113 tập kích sân bay Biên Hòa.
Chỉ vài ngày sau, được sự giúp đỡ chí tình của quân dân Biên Hòa, hơn 200 quả đạn ĐKB và H12, mỗi quả vài chục cân được tháo rời từng bộ phận mang ra trận địa cho đơn vị Đặc công 113. Ông Chín Tùng trực tiếp ra trận địa kiểm tra và hạ lệnh tấn công. Đêm 2-8, rạng sáng 3-8-1972 từng quả ĐKB, H12 từ trận địa bay thẳng vào bãi đậu máy bay, kho chứa xăng dầu, trại lính địch. Trong phút chốc, sân bay Biên Hòa trở thành biển lửa, 90 máy bay các loại, 2 đài kiểm soát không lưu và hàng trăm ngàn lít xăng dầu bị phá hủy; nhiều giặc lái, nhân viên kỹ thuật và lính bảo vệ sân bay bị giết.
Từ thắng lợi trong trận tập kích sân bay Biên Hòa, ông Chín Tùng tiếp tục phát huy sở trường lối đánh đặc công độc đáo. Lần này, mục tiêu được chọn là Tổng kho Long Bình, nơi đặt căn cứ hậu cần chiến lược của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam, được xem là “dạ dày” của quân viễn chinh Mỹ.
Khi có quyết định nghỉ hưu, Thiếu tướng, Anh hùng lực lượng vũ trang Nguyễn Thanh Tùng được tín nhiệm bầu giữ chức Chủ tịch Hội Cựu chiến binh tỉnh. Ở cương vị nào, ông cũng có nhiều công lao xây dựng lực lượng vũ trang tỉnh ngày thêm chính quy, nề nếp; phong trào Hội Cựu Chiến binh ngày thêm vững mạnh. |
Lần này, ông cho trinh sát bí mật xâm nhập căn cứ, điều nghiên tình hình và dùng thuốc nổ hẹn giờ đặt ở các khu vực trọng yếu rồi bí mật rút quân ra ngoài. Đêm 13-8-1972, với 120 khối thuốc nổ có sức công phá lớn, Trung đoàn Đặc công 113 đã cho nổ tung Tổng kho Long Bình, phá hủy 150 ngàn tấn bom đạn các loại, 200 tấn thuốc nổ, làm sập 17 nhà lính, tiêu diệt một đại đội công binh bảo vệ nhà kho và làm thiệt hại nhiều thiết bị, phương tiện chiến tranh của địch. Trận đánh này đã làm thủng “dạ dày” của quân Mỹ, làm phá sản các kế hoạch càn quét của chúng nhằm gây tội ác với dân ta.
Sau trận đánh Tổng kho Long Bình, Trung Đoàn Đặc công 113 còn phối hợp với quân dân Biên Hòa, U1 đánh sân bay Biên Hòa vào đêm 8-9-1972, phá hủy 175 máy bay A37 và C130, diệt nhiều sĩ quan, giặc lái, nhân viên kỹ thuật. Sân bay Biên Hòa bị tê liệt suốt 7 ngày, khiến các chuyến bay chi viện cho mặt trận Bình Long, Phước Long của địch phải hủy.
Kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đồng chí Nguyễn Thanh Tùng đảm nhiệm chức vụ Phó tư lệnh, rồi tư lệnh các đơn vị: Sư đoàn 2, Sư đoàn 5, Sư đoàn 310 làm nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc. Sau đó, ông được cử đi học quân sự cấp cao tại Hà Nội và được Bộ Quốc phòng điều về Đồng Nai làm Chỉ huy phó, Tham mưu trưởng Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh, rồi Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh.
Đức Việt