Tại phiên họp Quốc hội chiều 18-6 vừa qua, các đại biểu đã biểu quyết thông qua Bộ luật Lao động sửa đổi có hiệu lực từ ngày 1-5-2013) với quy định mới liên quan đến: độ tuổi nghỉ hưu, mức lương tối thiểu, chế độ nghỉ thai sản, tiền làm thêm giờ của người lao động…
Tại phiên họp Quốc hội chiều 18-6 vừa qua, các đại biểu đã biểu quyết thông qua Bộ luật Lao động sửa đổi có hiệu lực từ ngày 1-5-2013) với quy định mới liên quan đến: độ tuổi nghỉ hưu, mức lương tối thiểu, chế độ nghỉ thai sản, tiền làm thêm giờ của người lao động…
Một trong những nội dung được dư luận quan tâm, đó là thời gian nghỉ thai sản của người lao động sẽ là 6 tháng thay vì 4 tháng như hiện nay.
Không làm thêm quá 300 giờ/năm
Theo quy định thì tiền lương làm thêm giờ của người lao động không quá 50% số giờ làm việc chính thức trong 1 ngày. Trường hợp áp dụng quy định làm việc theo tuần thì tổng số giờ làm việc bình thường và số giờ làm thêm không quá 12 giờ trong 1 ngày; không quá 30 giờ trong 1 tháng và tổng số không quá 200 giờ trong 1 năm, trừ một số trường hợp đặc biệt do Chính phủ quy định thì được làm thêm giờ, nhưng cũng không quá 300 giờ trong 1 năm.
Được nghỉ thai sản 6 tháng
Luật quy định, lao động nữ được nghỉ trước và sau khi sinh con 6 tháng. Trường hợp lao động nữ sinh đôi trở lên thì tính từ con thứ 2 trở đi, cứ mỗi con, người mẹ được nghỉ thêm 1 tháng. Thời gian nghỉ trước khi sinh tối đa không quá 2 tháng. Lao động nữ nghỉ sinh con trước ngày bộ luật này có hiệu lực, mà đến ngày 1-5-2013 vẫn đang trong thời gian nghỉ sinh con theo quy định tại Luật Bảo hiểm xã hội thì thời gian nghỉ thai sản được thực hiện theo quy định của bộ luật này.
Một số trường hợp thay đổi tuổi nghỉ hưu
Về quy định tuổi nghỉ hưu, Quốc hội vẫn giữ nguyên độ tuổi là 55 với nữ và 60 tuổi với nam như quy định hiện hành. Theo đó, người lao động bảo đảm điều kiện về thời gian đóng bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội được hưởng lương hưu khi nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi.
Với người lao động bị suy giảm khả năng lao động; làm các công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm; làm việc ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo thuộc danh mục do Chính phủ quy định có thể nghỉ hưu ở tuổi thấp hơn so với quy định tại khoản 1 điều này.
Riêng người lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao, người lao động làm công tác quản lý và một số trường hợp đặc biệt khác có thể nghỉ hưu ở tuổi cao hơn nhưng không quá 5 năm so với quy định tại khoản 1 điều này.
Nhật Huy
(tổng hợp)