Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, trong những năm gần đây, nghề luật sư và đội ngũ luật sư đang ngày càng được xã hội chú trọng và phát triển. Thực tiễn cuộc sống đã khẳng định: Không có chế định luật sư và cơ chế đảm bảo quyền bào chữa của công dân thì khó có thể nói đến dân chủ trong hoạt động tư pháp và việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, trong những năm gần đây, nghề luật sư và đội ngũ luật sư đang ngày càng được xã hội chú trọng và phát triển. Thực tiễn cuộc sống đã khẳng định: Không có chế định luật sư và cơ chế đảm bảo quyền bào chữa của công dân thì khó có thể nói đến dân chủ trong hoạt động tư pháp và việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Luật sư là một nghề luật, nhưng hoạt động của luật sư cũng đòi hỏi phải được điều chỉnh bằng các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành. Pháp luật về luật sư là sự thể hiện tư tưởng của Đảng, Nhà nước ta về việc đảm bảo các quyền tự do, dân chủ cơ bản của công dân, trong đó có quyền bào chữa được coi là "thành trì" của các quyền tự do khác. Trong quá trình phát triển của hệ thống pháp luật Việt Nam, những quy định về luật sư đã được hình thành khá sớm; mặc dù ban đầu chỉ là những tập tục, tập quán chưa được coi trọng đối với các "thầy cung", "thầy kiện". Những năm trước Cách mạng tháng Tám (1945), việc hành nghề luật sư chủ yếu do người Pháp độc quyền, vai trò của người Việt
Ngay từ khi mới ra đời, Nhà nước ta đã quan tâm đến quyền bào chữa và các hoạt động hành nghề luật sư. Chế định về luật sư đã được quy định ngay trong Hiến pháp đầu tiên năm 1946 và được kế thừa, phát triển trong Hiến pháp 1959, 1980, 1992, làm nền tảng pháp lý cho sự tồn tại và hoạt động của đội ngũ luật sư trong chế độ xã hội mới. Tùy theo tình hình thực tế của từng thời kỳ cách mạng, Nhà nước ta ban hành những văn bản quy phạm pháp luật về tổ chức, hoạt động luật sư cho phù hợp nhằm đảm bảo quyền bào chữa và được trợ giúp pháp lý của các chủ thể trong xã hội như: Sắc lệnh số 46 ngày 10-10-1945; Sắc lệnh số 69 ngày 18-6-1949. Ngày 24-10-1956, Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư khẳng định việc "xâm phạm đến quyền tự do bào chữa thì không thể nào thực hiện được các quyền tự do, dân chủ khác"; xác lập nguyên tắc tranh tụng bình đẳng giữa công tố viên và người bào chữa trong hoạt động tố tụng. Sau khi thống nhất đất nước, Chính phủ có những quy định cụ thể về quyền bào chữa của bị cáo và nhất là từ khi Hiến pháp 1980 ra đời thì "Quyền bào chữa của bị cáo được bảo đảm. Tổ chức luật sư được thành lập để giúp các bị cáo và đương sự khác về mặt pháp lý". Bộ Tư pháp cũng đã có Thông tư hướng dẫn công tác bào chữa, kiện toàn tổ chức bào chữa viên nhân dân.
Sau Đại hội lần thứ VI của Đảng, xã hội Việt Nam đã có sự thay đổi mạnh mẽ trong toàn bộ các lĩnh vực của đời sống; nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước được hình thành, phát triển; nhu cầu về dịch vụ pháp lý tăng vọt về số lượng và chất lượng, đòi hỏi phải có một đội ngũ luật sư chuyên nghiệp. Pháp lệnh tổ chức luật sư do Hội đồng Nhà nước ban hành năm 1987 và Quy chế Đoàn luật sư kèm theo Nghị định của Hội đồng Bộ trưởng năm 1989 là bước phát triển về mặt nhận thức đối với quyền bào chữa của công dân cũng như hoạt động luật sư; đánh dấu sự phát triển về tư duy pháp lý để theo kịp với đường lối đổi mới kinh tế. Nhằm đáp ứng nhu cầu mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế, Quy chế hành nghề tư vấn pháp luật của luật sư nước ngoài tại Việt Nam đã được ban hành theo Nghị định 42/CP ngày 8/7/1995 của Chính phủ, quy định: Các tổ chức luật sư nước ngoài nếu có đủ điều kiện sẽ được phép hành nghề tư vấn pháp luật ở Việt Nam và được phép đặt chi nhánh tại Việt Nam. Tiếp theo là Pháp lệnh luật sư được Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành năm 2001 là bước tiến quan trọng trong quá trình hoàn thiện chế định luật sư ở nước ta, đưa chế định này gần lại với thông lệ quốc tế, làm cơ sở cho việc hội nhập kinh tế quốc tế. Pháp lệnh đã có những quy định mới về tiêu chuẩn, điều kiện, phạm vi hành nghề luật sư; những quyền, nghĩa vụ cơ bản của luật sư và tổ chức hành nghề luật sư. Sau đó, Chính phủ còn ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành pháp lệnh này. Trong Chương trình xây dựng luật năm 2006, Quốc hội sẽ xem xét, thông qua dự án Luật luật sư tại kỳ họp thứ 9 khẳng định vị trí, vai trò của đội ngũ luật sư trong việc phát triển dân chủ, bảo vệ công bằng xã hội. Đây là sự hoàn thiện cao về thể chế pháp luật về luật sư, nhằm phát triển đội ngũ luật sư đủ số lượng, có phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội, phục vụ đắc lực cho công cuộc cải cách tư pháp và hội nhập kinh tế quốc tế.
Mặc dù có sự phát triển vượt bậc trong tiến trình xây dựng hệ thống pháp luật về luật sư, nhưng số lượng đội ngũ luật sư hiện nay vẫn còn quá ít so với tổng dân số cả nước, chưa đáp ứng được dịch vụ pháp lý ngày càng tăng của xã hội. Theo số liệu của Văn phòng Quốc hội, tính đến ngày 31-5-2005, số lượng luật sư và luật sư tập sự tại Hà Nội chỉ có 752 người, T.P Hồ Chí Minh 1001 người (chiếm hơn 50% cả nước). Số tổ chức hành nghề luật sư của Hà Nội là 145, tại T.P Hồ Chí Minh là 311 trong tổng số 839 tổ chức hành nghề luật sư của cả nước. Trong khi đó, Đoàn luật sư ở một số tỉnh miền núi như: Kon Tum, Hà Giang,
Luật sư trong hệ thống pháp luật Việt
Nguyễn Hồng Chanh











