Người đang sử dụng đất (SDĐ) có một trong các loại giấy tờ xác nhận về quyền SDĐ, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất sẽ được xem xét cấp giấy chứng nhận quyền SDĐ, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất (gọi tắt là “sổ đỏ”) theo quy định tại Luật Đất đai năm 2024 (có hiệu lực từ ngày 1-8-2024).
Luật Đất đai năm 2024 tháo gỡ việc cấp “sổ đỏ” đối với nhiều loại đất có và chưa có các loại giấy tờ chứng minh quyền sử dụng đất của người sử dụng đất. Ảnh minh họa: Nông dân xã Sông Nhạn (huyện Cẩm Mỹ) thu hoạch sầu riêng. Ảnh: Đ.Phú |
Các giấy tờ chứng minh người có quyền sử dụng đất
Theo Điều 37 Luật Đất đai năm 2024, có nhiều loại giấy tờ chứng minh quyền SDĐ mà người SDĐ đang có để được xem xét cấp “sỏ đỏ”.
Chẳng hạn, tại khoản 1, Điều 137 Luật Đất đai năm 2024 quy định, hộ gia đình, cá nhân đang SDĐ ổn định mà có một trong các loại giấy tờ được lập trước ngày 15-10-1993 sau đây thì được cấp “sổ đỏ” và không phải nộp tiền SDĐ: những giấy tờ về quyền được SDĐ do cơ quan có thẩm quyền cấp trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Hoặc một trong các giấy tờ về quyền SDĐ do cơ quan có thẩm quyền thuộc chế độ cũ cấp cho người SDĐ gồm: bằng khoán điền thổ; văn tự đoạn mãi bất động sản có chứng nhận của cơ quan thuộc chế độ cũ; văn tự mua bán nhà ở, tặng cho nhà ở, đổi nhà ở, thừa kế nhà ở mà gắn liền với đất ở có chứng nhận của cơ quan thuộc chế độ cũ; bản di chúc hoặc giấy thỏa thuận tương phân di sản về nhà ở được cơ quan thuộc chế độ cũ chứng nhận; giấy phép cho xây cất nhà ở; giấy phép hợp thức hóa kiến trúc của cơ quan thuộc chế độ cũ cấp; bản án của tòa án thuộc chế độ cũ đã có hiệu lực thi hành.
Hoặc giấy chứng nhận quyền SDĐ tạm thời được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp hoặc có tên trong sổ đăng ký ruộng đất, sổ địa chính; giấy tờ chuyển nhượng quyền SDĐ, mua bán nhà ở gắn liền với đất ở, nay được UBND cấp xã xác nhận đã SDĐ trước ngày 15-10-1993; sổ mục kê, sổ kiến điền lập trước ngày 18-12-1980 mà có tên người SDĐ.
Hay một trong các giấy tờ được lập trong quá trình thực hiện đăng ký ruộng đất theo Chỉ thị số 299/TTg ngày 10-11-1980 của Thủ tướng Chính phủ về công tác đo đạc, phân hạng và đăng ký ruộng đất trong cả nước do cơ quan nhà nước đang quản lý mà có tên người SDĐ, bao gồm: biên bản xét duyệt của Hội đồng Đăng ký ruộng đất cấp xã xác định người đang SDĐ là hợp pháp; bản tổng hợp các trường hợp SDĐ hợp pháp do UBND cấp xã hoặc Hội đồng Đăng ký ruộng đất cấp xã hoặc cơ quan quản lý đất đai cấp huyện, cấp tỉnh lập; đơn xin đăng ký quyền sử dụng ruộng đất; giấy tờ về việc chứng nhận đã đăng ký quyền SDĐ của UBND cấp xã, cấp huyện hoặc cấp tỉnh cấp cho người SDĐ. Giấy tờ về việc kê khai, đăng ký nhà cửa được UBND cấp xã, cấp huyện hoặc cấp tỉnh xác nhận mà trong đó có ghi diện tích đất có nhà…
Đồng thời, tại khoản 3, Điều 137 Luật Đất đai năm 2024 cũng có quy định, hộ gia đình, cá nhân đang SDĐ ổn định mà có một trong các loại giấy tờ sau đây thì được cấp “sổ đỏ” và không phải nộp tiền SDĐ: giấy tờ hợp pháp về thừa kế, tặng cho quyền SDĐ hoặc tài sản gắn liền với đất; giấy tờ giao nhà tình nghĩa, nhà tình thương, nhà đại đoàn kết gắn liền với đất; giấy tờ thanh lý, hóa giá nhà ở gắn liền với đất ở; giấy tờ mua nhà ở thuộc sở hữu nhà nước theo quy định của pháp luật.
Khoản 5, Điều 137 Luật Đất đai năm 2024 quy định hộ gia đình, cá nhân đang SDĐ có một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2, 3 và 4 Điều 137 Luật Đất đai năm 2024 mà trên giấy tờ đó ghi tên người khác, kèm theo giấy tờ về việc chuyển quyền SDĐ, nhưng đến trước ngày Luật Đất đai năm 2024 có hiệu lực thi hành chưa thực hiện thủ tục chuyển quyền SDĐ theo quy định của pháp luật và đất đó không có tranh chấp thì được cấp “sổ đỏ”.
Mất bản chính, còn bản sao có được xem xét cấp “sổ đỏ”?
Mặc dù Điều 137 Luật Đất đai năm 2024 liệt kê rất nhiều loại giấy tờ về quyền SDĐ mà người SDĐ đang có để được xem xét cấp “sổ đỏ” nhưng trong quá trình SDĐ, người có quyền SDĐ không còn lưu giữ bản chính các loại giấy tờ trên vì lý do khác nhau như: bị mất, thất lạc, chỉ còn bản sao. Do đó, một số bạn đọc muốn biết trường hợp này có được cơ quan có thẩm quyền xét cấp “sổ đỏ” theo yêu cầu hay không?
Cụ thể, ông Nguyễn Văn An (ngụ xã Đắc Lua, huyện Tân Phú) cho biết, đất của ông đang sử dụng có giấy tờ nông, lâm trường quốc doanh về việc giao đất để làm nhà ở kết hợp với sản xuất nông, lâm nghiệp trước thời điểm 1-7-2004. Tuy vậy, ông đã làm mất bản chính, chỉ lưu giữ được bản sao. Nay ông có nhu cầu xin cấp “sổ đỏ”, vậy đất của ông có được xem xét cấp “sổ đỏ”?
Hay trường hợp bà Nguyễn Thị Liên (ngụ xã Tân An, huyện Vĩnh Cửu) muốn biết, đất của bà có giấy tờ về việc kê khai, đăng ký nhà cửa được UBND tỉnh xác nhận mà trong đó có ghi diện tích đất có nhà. Tuy nhiên, do bản chính bị mất, chỉ còn bản sao thì có được xem xét cấp “sổ đỏ”?
Trao đổi về các thắc mắc nêu trên, luật sư Lê Văn Bá (Đoàn Luật sư tỉnh) cho biết, các trường hợp này sẽ được cơ quan có thẩm quyền xem xét cấp “sổ đỏ” khi có yêu cầu. Căn cứ để cấp “sổ đỏ” cho các trường hợp này được khoản 7, Điều 137 Luật Đất đai năm 2024 quy định khá cụ thể. Chẳng hạn, trường hợp của ông Nguyễn Văn An, bà Nguyễn Thị Liên mất bản chính giấy tờ đất, chỉ còn bản sao. Tuy vậy, việc SDĐ của ông, bà phải được UBND cấp xã nơi có đất xác nhận là đất sử dụng ổn định, không có tranh chấp thì mới được xem xét cấp “sổ đỏ” theo nguyện vọng.
Cũng theo luật sư Lê Văn Bá, tại khoản 7, Điều 137 Luật Đất đai năm 2024 còn quy định nhiều trường hợp khác khi hộ gia đình, cá nhân có bản sao một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4, 5 và 6 Điều 137 Luật Đất đai năm 2024 mà bản gốc giấy tờ đã bị thất lạc và cơ quan nhà nước không còn lưu giữ hồ sơ quản lý việc cấp loại giấy tờ này, được UBND cấp xã nơi có đất xác nhận là đất sử dụng ổn định, không có tranh chấp sẽ được xem xét cấp “sổ đỏ”.
Đoàn Phú
Thông tin bạn đọc
Đóng Lưu thông tin