Báo Đồng Nai điện tử
Hotline: 0915.73.44.73 Quảng cáo: 0912174545 - 0786463979
En

Tiếng thơ người lính
(Đọc "Lặng lẽ thời gian" - thơ của Tấn Hoài)

09:09, 12/09/2005

Lặng lẽ thời gian là tập thơ của Tấn Hoài được Nhà xuất bản Đồng Nai cho ra mắt bạn đọc năm 2005. Gần 50 bài thơ hiện lên chân dung một người lính nhà thơ và nhà thơ với những người lính, cùng mẹ, quê hương và những người thân yêu.

Lặng lẽ thời gian là tập thơ của Tấn Hoài được Nhà xuất bản Đồng Nai cho ra mắt bạn đọc năm 2005. Gần 50 bài thơ hiện lên chân dung một người lính nhà thơ và nhà thơ với những người lính, cùng mẹ, quê hương và những người thân yêu.

Trong cuộc chiến đấu với quân thù, hình ảnh những  người  lính trong tư thế xung phong lên phía trước chính là cảm hứng của thơ Tấn Hoài. Tư thế xung phong của người lính tạc vào tâm khảm nhà thơ như một vầng sáng lung linh, mãi mãi xứng đáng để các thế hệ tiếp nối tự hào: Một dáng xung phong, một viên  đạn nổ/ Mà trăm ngàn thế hệ lung linh (Ngân hàng những nhà thơ).

Để chiến đấu và chiến thắng, người lính cần phải biết lo tổ chức cuộc sống. Đó  chính là  hậu cứ an toàn, che chở và gắn bó với người lính trong chuỗi ngày chiến đấu. Năm tháng qua đi, cuộc sống ở chiến khu tự nó lên tiếng hát. Có những khúc hát mang tâm trạng rất con người: Chập chờn lửa bếp canh khuya/ Chim ngàn tiếng gió buồn nghe đêm trường. Nhưng ở một khía cạnh khác, chiến khu còn là niềm hy vọng, sự lạc quan, là điểm tựa tâm hồn của người lính: Bãi sỏi dài ngồi ngóng trăng lên/ Ba Lòng cuồn cuộn núi viền/ Chiều xuôi đò hẹp, nghe đêm tiếng hò ... (Cười trong lá, hát trong cây).

Hình ảnh quê hương trong chiến tranh bị tàn phá tiêu điều, mẹ già đơn côi bao giờ cũng là nỗi nặng lòng của những anh bộ đội. Nhất là phút giao thừa, ngày giáp Tết. Nhưng nỗi nhớ thương không bi lụy mà vẫn gắn với một niềm tin ở ngày mai khi con mẹ trở về. Gió về sông trắng thuyền xuôi/ Mai con sang bến, mẹ ơi chớ buồn (Đêm nay giao thừa). Câu thơ gắn với cảnh vật ở một không gian tự nhiên sáng lên. Ánh sáng bắt nguồn từ nhận thức của người chiến sĩ. Nhận thức ấy giúp họ vượt qua chính mình trong những phút chạnh lòng phiền muộn.

Dọc đường hành quân, nhiều anh chiến sĩ gặp người làng, người yêu đi dân công hỏa tuyến. Niềm vui ập đến. Bao tâm sự, dặn dò  giữa chung và riêng  đan xen, vương vấn. Đây là những nét chấm phá làm nên sự sinh động cho cuộc chiến đấu. Ngày mai gánh gạo lên rừng/ Em đi vận tải nhớ chừng em nghe/ Đi mau cho kịp rồi về/ Lúa đồng sắp trổ đồng quê mẹ chờ (Em đi vận tải). Một người lính không từ nông dân, e  khó có những tình cảm tự nhiên, mộc mạc song rất  thơ như vậy.

Mỗi con đường, dòng dông, ngọn núi khi người lính hành quân qua thì đây đó như vẫn hiện lên gương mặt thân yêu của người vợ trẻ, cũng có thể là người yêu, dõi theo từng bước quân hành. Đó là nguồn động lực, là cái đích của cuộc chiến đấu: Em là mây của nghìn ngọn núi/ Em là đường hành quân anh qua/ Nhưng dòng sông bến đò phải tới/ Một cụm đồi non, mấy quãng rừng già ... (Bài thơ màu xanh).

Được chứng  kiến  cảnh  làng quê được giải phóng, đồn giặc bị san bằng, người chiến sĩ hiểu rằng đó cũng là cái giá của bao máu xương đồng đội và nhân dân đổ xuống. Do vậy, niềm vui sao rất đỗi nghẹn ngào, hạnh phúc trộn trong nước mắt: Ôm nhau cười hay khóc... Và đêm nay ... Tin về lửa cháy ngoài Ba Đốc/ Chợ Cạn hùa nhau giặc rút đồn  (Về Chợ Cạn).

Viết về vùng đất Quảng Trị anh hùng mấy chục năm chìm trong máu lửa, tác giả đi sâu khai thác môtip địa danh trong thơ ở các bài như: Em là cô gái Ba Lòng, Về trên mảnh đất không đổi tên, Đường Chín ... Mỗi tên đất chỉ cần nhắc đến đã trỗi dậy trong ta cuộc chiến đấu hào hùng mãi mãi không phai nhạt. Đó là: Ba Lòng, Thạch Hãn, Làng Hạ, Làng Ngang, Khe Sanh, Đường Chín...

Thành cổ Quảng Trị với 81 ngày đêm trong mùa hè năm 1972 với hơn 10.000 người con thân yêu của cả nước đã ngã xuống. Nơi đây hiện lên như một pháo đài bi tráng, một biểu tượng anh hùng trong cuộc chiến đấu vì độc lập tự do của nhân dân ta: Tám mốt ngày đêm nghìn trận bão/ Ngực trần Quảng Trị chẳng cô đơn/ Rung lên máu thịt thành sắt thép/ Từng trái tim, từng núi căm hờn (Giữa từng viên gạch vỡ).

Theo tiết lộ của Lầu Năm góc và báo chí, mỗi mét vuông của Quảng Trị chịu đựng một tấn bom Mỹ. Hãy hình dung như thế, một nắm đất trên tay ta, lượng gang thép hẳn phải nhiều hơn đất cát. Mỗi cánh đồng giờ đây là hình ảnh quê hương thu nhỏ mà mỗi gốc lúa, ngọn cỏ, tội ác còn giấu mặt. Mỗi tấc đất được tính bằng máu  của đồng bào và chiến sĩ: Chào mảnh đất quê ta gian khổ/ Mà gang sắt chia đều ngọn cỏ? Mà máu lành thay nước thấm sâu/ Rất kiên dũng, anh hùng tột độ (Bài ca cánh đồng).

Viết  về đồng đội đã hy sinh vì độc lập tự do và hạnh phúc hôm nay, Tấn Hoài trăn trở. Ít nhất là sự xúc động phải chân thành, đừng để cho những sự sáo mòn, những lời hoa mỹ, gượng gạo chi phối: Chiều xuân đứng trước nghĩa trang/ Làn hương bay, khỏi dần tan loãng dần/ Câu thơ phút chốc đổi vần/ Trái tim đồng đội mỗi lần gặp nhau (Chiều xuân).

Với Lặng lẽ thời gian, Tấn Hoài đã khẳng định: Người lính chiến đấu vì quê hương đất nước nên chấp nhận hy sinh gian khổ và luôn tin vào ngày thắng lợi.

Đọc Lặng lẽ thời gian, ta không thấy tác giả đi vào thêu dệt, ngâm ngợi cái tôi một cách ẻo lả, lạc lõng giữa cuộc chiến đấu. Có lẽ đấy chính là một trong những phẩm chất đáng ghi nhận của người lính chăng? Do vậy, bao trùm lên Lặng lẽ thời gian là hiện thực cuộc sống, chiến đấu hào hùng của quê hương, đất nước. Hiện thực ấy đã tạo nên sự rung động sâu xa nhất, chân thành nhất đối với nhà thơ.

Sau hết, người viết xin mượn bốn câu thơ tiêu biểu trong bài Đêm trăng Cẩm Mỹ khi tác giả chọn Đồng Nai làm quê hương thứ hai của mình, trong tập  thơ để kết thúc bài viết  về Lặng lẽ thời gian:

Trăng đẹp soi trên những dặm rừng

Mùa đông đang tới, nhựa đang ngưng

Lung linh hy vọng nuôi chồi biếc

Bên những khu nhà điện sáng trưng.

Lê Đăng  Kháng

Tin xem nhiều