Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, địa bàn Long Thành - Nhơn Trạch có vai trò rất quan trọng, bởi đây là bàn đạp để quân ta kiềm giữ chiến trường và từ đó tiến về Sài Gòn.
![]() |
| Đô thị Long Thành là khu vực trung tâm của đô thị Sân bay Long Thành. Ảnh minh họa: Phạm Tùng |
Khoảng 16h ngày 20-4-1975, Đại tướng Lê Trọng Tấn - Tư lệnh mặt trận hướng Đông, nhận được điện khẩn của Đại tướng Văn Tiến Dũng - Tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh, với nội dung: “Ngày 28, 29 phải chiếm bằng được Nhơn Trạch, vị trí phía Đông Nam Sài Gòn để đặt pháo 130 ly bắn vào Sân bay Tân Sơn Nhất và các mục tiêu quân sự”.
Đây là quyết định mang tính chiến lược của chỉ huy chiến dịch, bởi lực lượng pháo ở Nhơn Trạch sẽ khống chế, không để địch dùng không quân đánh chặn các cánh quân của ta, như trường hợp đã xảy ra trong trận đánh Xuân Lộc. Song song đó, lực lượng bộ binh của sư đoàn sẽ vượt sông Đồng Nai ở đoạn Cát Lái rồi tiến về Sài Gòn. Muốn vậy, Long Thành - Nhơn Trạch phải sớm được giải phóng. Tuy nhiên, căn cứ vào tình hình thực tế của chiến trường lúc ấy, đồng chí Lê Trọng Tấn đề nghị cho nổ súng trước một ngày mới kịp đánh chiếm Nhơn Trạch và được đồng chí Văn Tiến Dũng chấp thuận.
Hừng hực khí thế tiến công
Sau chiến thắng đập tan “cánh cửa thép” Xuân Lộc vào ngày 21-4, Sư đoàn 304 (Quân đoàn 2) và Sư đoàn 325 đã nhanh chóng hành quân tiến về xã Bình Sơn, phối hợp cùng quân dân Long Thành - Nhơn Trạch thực hiện nhiệm vụ trên.
16h30 ngày 27-4, Sư đoàn 304 từ Bình Sơn tiến về Căn cứ quân sự Nước Trong, tấn công địch ở các khu vực: Trường Thiết giáp, Trường Sĩ quan lục quân, Trường Cảnh sát quốc gia II; Trung đoàn 46 hướng đến quận lỵ Long Thành; Trung đoàn 101, Trung đoàn 95 (đều thuộc Sư đoàn 325) tiến về Nhơn Trạch.
Trước đó, pháo của Sư đoàn 325 được sự hỗ trợ của dân và quân địa phương đã đưa vào cánh đồng Sở Hoàng (thuộc xã Long An) rồi bắn vào Chi khu Long Thành, dinh quận trưởng và các bãi pháo của địch tại Phước Hòa, Bến Sắn (xã Phước Thiền, huyện Nhơn Trạch).
| Sau khi giải phóng Nhơn Trạch, đến 17h30 ngày 29-4, 2 tiểu đội trinh sát của Sư đoàn 325 đến khu vực phà Cát Lái. Tại đây, hơn 100 ghe xuồng đã được Huyện ủy Nhơn Trạch chuẩn bị sẵn sàng đưa các chiến sĩ vượt sông qua Thủ Đức, tiến về Sài Gòn, góp phần vào chiến thắng của Chiến dịch Hồ Chí Minh. |
Trận chiến đấu giải phóng quận lỵ Long Thành diễn ra khá ác liệt. Ổ hỏa lực của địch tại gần dinh quận trưởng bắn cháy 2 chiếc xe tăng, tiểu đội 8 người của Trung đoàn 46 chiến đấu bên cạnh bị hy sinh hết 6 người, chỉ còn lại Tiểu đội phó Hai Hạnh và chiến sĩ Đinh Thế Huynh. Bộ đội ta vẫn dũng cảm xông lên, người trước hy sinh, người sau tiến lên thay thế vị trí chiến đấu.
Ở Căn cứ Nước Trong, Sư đoàn 304 cũng đối mặt với sự phản kháng điên cuồng của địch. Nơi đây có gần 5 tiểu đoàn địch chốt giữ; ngoài ra, còn có Lữ đoàn Thiết giáp 22 với 50 xe tăng yểm trợ. Pháo của Sư đoàn 304 đặt tại rừng cao su Ông Quế đã bắn khoảng 2 ngàn quả pháo, bộ binh phối hợp với xe tăng của Lữ đoàn 203 tiến công tiêu diệt địch. Đến 15h ngày 28-4, ta chiếm được khu vực này. Quận Long Thành hoàn toàn được giải phóng. Trung đoàn 46 của Sư đoàn 325 tiếp tục tiến về Nhơn Trạch để phối hợp chiến đấu.
Ở mũi tiến đến Nhơn Trạch, Trung đoàn 101 qua cầu Phước Thiền, theo lộ 17 (nay là đường Lý Thái Tổ) tiến đến Chi khu Nhơn Trạch. Trước đó, bộ đội địa phương D.240 đã phối hợp với lực lượng du kích 2 xã Phú Hội, Long Tân diệt lính dân vệ ven lộ 17, chiếm giữ cầu Phước Thiền, đồn Phú Hội và bót cầu Long Tân, dọn đường cho Trung đoàn 101 nhanh chóng tiến đánh chi khu; đồng thời, bảo đảm an toàn cho pháo 130 ly của quân đoàn đặt tại khu vực đồi Bình Phú thuộc xã Long Tân. Xe tăng, bộ binh của trung đoàn tấn công dồn dập, tràn vào chiếm chi khu. Trung tá Phương, Quận phó Nhơn Trạch, dẫn theo gần 200 lính ra hàng.
Cùng lúc đó, Trung đoàn 95 theo lộ 19 (nay là đường Hùng Vương) qua Hiệp Phước, Phước An tấn công Căn cứ Thành Tuy Hạ. Địch dựa vào cao điểm chống trả rất quyết liệt. Cuối cùng, thiếu tá Trần Thành Châu, Chỉ huy phó căn cứ, dẫn hơn một tiểu đoàn ra đầu hàng, nộp súng. Tuy nhiên, một số tàn quân ngoan cố dùng pháo bắn ra ngoài trúng ngay trường cấp 3 ở xã Phú Thạnh, nơi có hàng trăm người dân từ miệt Long Khánh, Trảng Bom tản cư đang trú ngụ, làm hàng chục người thiệt mạng, trong đó phần lớn là phụ nữ và trẻ em; hơn 10 ngôi nhà ở khu ấp Chợ của xã cũng trúng pháo tan tành.
Chiều 28-4, trừ xã Vĩnh Thanh, các xã khác ở Nhơn Trạch đều được giải phóng.
Khoảnh khắc lịch sử ở xứ đạo
Vĩnh Thanh là xã cuối cùng của huyện Nhơn Trạch được giải phóng, bởi so với các xã khác, tình hình ở Vĩnh Thanh có đặc thù.
Trước kia, Vĩnh Thanh chỉ có 2 xã là: Ông Kèo (nay là ấp Chính Nghĩa) và Xoài Minh (nay là ấp Thanh Minh). Sau năm 1954, chính quyền Ngô Đình Diệm an trí khoảng 7 ngàn giáo dân di cư từ miền Bắc vào Vĩnh Thanh, phân bố thành 8 ấp, tương đương với 8 giáo xứ. Với chủ trương chia rẽ lương - giáo của chính quyền Sài Gòn, giáo dân di cư co cụm trong các giáo xứ, sống cách biệt, thậm chí mâu thuẫn gay gắt với cộng đồng người bản địa. Đặc biệt, từ khi địch xây dựng ấp chiến lược, 8 giáo xứ trong xã vô hình trung trở thành 8 “pháo đài chống Cộng”. Trong lúc nhiều thanh niên Ông Kèo và Xoài Minh thoát ly theo cách mạng thì phần lớn thanh niên 8 ấp di cư lại gia nhập quân đội, cảnh sát hoặc làm việc cho chính quyền chế độ cũ.
Năm 1972, Huyện ủy Nhơn Trạch thành lập Đội Vũ trang tuyên truyền di cư (còn gọi là K.11), do đồng chí Phạm Văn Duyên làm Đội trưởng, có nhiệm vụ tiếp cận, tuyên truyền cho người dân Công giáo di cư hiểu đường lối, mục tiêu của Phong trào Giải phóng dân tộc, qua đó làm thay đổi nhận thức của họ đối với cách mạng.
Ngày 28-4, từ ấp Quới Thạnh (nay thuộc xã Phước An), K.11 tiến đến giải phóng ấp Thiết Nham, là ấp di cư nằm ở đầu lộ 19 đoạn qua Vĩnh Thanh. Trong giai đoạn vùng lên phá ấp chiến lược 1962-1963, ta không vận động được dân di cư Công giáo ở các giáo xứ nên hàng rào, cổng ấp chiến lược những nơi này vẫn còn giữ nguyên. Lúc này, cổng ấp Thiết Nham khóa chặt, không cho các chiến sĩ K.11 vào, một số phần tử quá khích còn phát loa kêu gọi người dân Thiết Nham chiến đấu chống lại Cộng sản, tử thủ đến cùng.
Ông Thân Trọng Địa, nguyên Trưởng ty Thông tin chiêu hồi tỉnh Biên Hòa, thời điểm này về sống ở giáo xứ Thiết Nham và là người có uy tín trong giáo xứ, đã tiến đến giáng cho người đang phát loa kêu gọi tử thủ mấy bạt tai, mắng to: “Giờ này mà mấy người còn kêu gọi chống đối. Mau mở cổng”.
Rồi ông cùng với một số cụ cao tuổi trong giáo xứ mở cổng cho các chiến sĩ vào tiếp quản ấp Thiết Nham. Riêng linh mục Nguyễn Hưng Mạch và thầy tu Trần Thái Minh không chỉ giao cho đồng chí Duyên mấy chục khẩu súng, mà còn lên tiếng kêu gọi binh lính quân đội Sài Gòn đang lẩn trốn ra trình diện chính quyền cách mạng.
Ổn định xong tình hình ở ấp Thiết Nham, Đội K11 lần lượt tiến đến giải phóng các ấp Nghĩa Mỹ, Nghĩa Hiệp, Đại Điền. Ở 2 ấp Ông Kèo, Xoài Minh, người dân phối hợp với cán bộ, du kích địa phương tự giải phóng, kêu gọi binh lính bỏ vũ khí ra hàng cách mạng.
Ngày 29-4, Đội K.11 giải phóng các ấp còn lại: Nghĩa Yên, Bắc Thần, Bắc Minh, Vĩnh Phước. Nhưng đến ngày 1-5, lực lượng giải phóng mới hoàn toàn làm chủ tình hình ở xã Vĩnh Thanh.
Hà Lam




![[Chùm ảnh] Không khí lạnh về, nhiều người mặc áo ấm ra đường vào sáng sớm](/file/e7837c02876411cd0187645a2551379f/112025/49c7751355b8d9e680a95_20251129140528.jpg?width=500&height=-&type=resize)









Thông tin bạn đọc
Đóng Lưu thông tin