Khoản 1, Điều 2 Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 2015 quy định, chỉ người nào phạm một tội đã được BLHS năm 2015 quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự.
Khoản 1, Điều 2 Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 2015 quy định, chỉ người nào phạm một tội đã được BLHS năm 2015 quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự.
Luật sư Nguyễn Đức (Hội Luật gia tỉnh, thứ 2 từ phải qua) giải thích cho một người dân xã Mã Đà (H.Vĩnh Cửu) về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự tại buổi tuyên truyền pháp luật ở xã Mã Đà vào ngày 24-11. Ảnh minh họa: Đoàn Phú |
Luật sư Nguyễn Đức (Hội Luật gia tỉnh) cho hay, BLHS năm 2015 cũng quy định nhiều trường hợp người phạm tội được miễn truy cứu trách nhiệm hình sự, được loại trừ trách nhiệm hình sự.
* Độ tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự
Khoản 2, Điều 12 BLHS năm 2015 quy định, người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại Điều 123 (tội giết người), Điều 134 (tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác), Điều 141 (tội hiếp dâm), Điều 142 (tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi), Điều 143 (tội cưỡng dâm), Điều 144 (tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi), Điều 150 (tội mua bán người), Điều 151 (tội mua bán người dưới 16 tuổi), Điều 168 (tội cướp tài sản), Điều 169 (tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản), Điều 170 (tội cưỡng đoạt tài sản), Điều 171 (tội cướp giật tài sản), Điều 173 (tội trộm cắp tài sản), Điều 178 (tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản), Điều 248 (tội sản xuất trái phép chất ma túy), Điều 249 (tội tàng trữ trái phép chất ma túy), Điều 250 (tội vận chuyển trái phép chất ma túy), Điều 251 (tội mua bán trái phép chất ma túy), Điều 252 (tội chiếm đoạt chất ma túy), Điều 265 (tội tổ chức đua xe trái phép), 266 (tội đua xe trái phép), Điều 304 (tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự) của BLHS năm 2015.
Luật sư Nguyễn Đức cho hay, điều luật quy định như vậy có nghĩa là: thứ nhất, người dưới 14 tuổi khi phạm tội không phải chịu trách nhiệm hình sự. Thứ hai, người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi sẽ không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm ít nghiêm trọng, nghiêm trọng quy định tại một trong các điều: 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của BLHS năm 2015. Thứ ba, người phạm tội theo Khoản 2, Điều 12 BLHS còn được miễn trách nhiệm hình sự khi có một trong những căn cứ sau: khi tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử, do có sự thay đổi chính sách, pháp luật làm cho hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa; khi có quyết định đại xá (Khoản 1, Điều 29 BLHS năm 2015).
* Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại
Khoản 1, Điều 155 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định, chỉ được khởi tố vụ án hình sự về tội phạm quy định tại Khoản 1 của Điều 134 (tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác), Điều 135 (tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh), Điều 136 (tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội), Điều 138 (tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác), Điều 139 (tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính), Điều 141 (tội hiếp dâm), Điều 143 (tội cưỡng dâm), Điều 155 (tội làm nhục người khác), Điều 156 (tội vu khống) và Điều 226 (tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp) của BLHS năm 2015 khi có yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết.
Luật sư Lưu Hồng Khanh (Đoàn Luật sư tỉnh) phân tích, do người phạm tội tại khoản 1 của các điều nêu trên thuộc trường hợp phạm tội ít nghiêm trọng (khung hình phạt đến 3 năm tù), nghiêm trọng (khung hình phạt tù từ trên 3 đến 5 năm) và tội phạm liên quan tới thân thể, danh dự, sức khỏe... nên Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 trao quyền yêu cầu khởi tố vụ án cho người bị hại. Do đó, người phạm tội theo khoản 1 các điều trên có thể không bị truy cứu trách nhiệm hình sự nếu người bị hại không yêu cầu khởi tố vụ án hoặc vụ án bị đình chỉ khi người bị hại tự nguyện rút đơn yêu cầu khởi tố vụ án.
Cũng theo luật sư Lưu Hồng Khanh, mặc dù vụ án không bị khởi tố, nghĩa là người phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự, được miễn truy cứu trách nhiệm hình sự, nhưng người phạm tội quy định tại khoản 1 các điều: 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155, 156 và 226 của BLHS năm 2015 vẫn phải chịu trách nhiệm hành chính (bị xử phạt vi phạm hành chính) khi vụ án không bị khởi tố, bị đình chỉ và người phạm tội có thể chịu trách nhiệm dân sự (về bồi thường thiệt hại) nếu người bị hại yêu cầu bồi thường.
Việc miễn trách nhiệm hình sự có thể do cơ quan điều tra, viện kiểm sát hoặc tòa án áp dụng theo từng giai đoạn của vụ án.
Đoàn Phú