Ngày 15-5-2014, Chính phủ ban hành Nghị định 43/2014/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều, khoản của Luật Đất đai sửa đổi năm 2013. Đây là cơ sở để có thể xem xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất nhằm giải quyết các vướng mắc và đảm bảo công bằng trên thực tế.
Ngày 15-5-2014, Chính phủ ban hành Nghị định 43/2014/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều, khoản của Luật Đất đai sửa đổi năm 2013. Đây là cơ sở để có thể xem xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất nhằm giải quyết các vướng mắc và đảm bảo công bằng trên thực tế. Theo đó, Nghị định đã quy định bổ sung 8 loại giấy tờ về quyền sử dụng đất lập trước ngày 15-10-1993, cụ thể như sau:
- Sổ mục kê đất, sổ kiến điền lập trước ngày 18-12-1980.
- Một trong các giấy tờ được lập trong quá trình thực hiện đăng ký ruộng đất theo Chỉ thị số 299-TTg ngày 10-11-1980 của Thủ tướng Chính phủ.
- Dự án hoặc văn bản về việc di dân đi xây dựng khu kinh tế mới, di dân tái định cư được UBND các cấp huyện, tỉnh hoặc cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phê duyệt.
- Giấy tờ của nông trường, lâm trường quốc doanh về việc giao đất cho người lao động trong nông trường, lâm trường để làm nhà ở (nếu có).
- Giấy tờ có nội dung về quyền sở hữu nhà ở, công trình; về việc xây dựng, sửa chữa nhà ở, công trình được UBND các cấp huyện, cấp tỉnh hoặc cơ quan quản lý nhà nước về nhà ở, xây dựng chứng nhận hoặc cho phép.
- Giấy tờ tạm giao đất của UBND cấp huyện, cấp tỉnh; đơn đề nghị được sử dụng đất được UBND cấp xã, hợp tác xã nông nghiệp phê duyệt, chấp thuận trước ngày 1-7-1980; hoặc được UBND cấp huyện, cấp tỉnh phê duyệt, chấp thuận.
- Giấy tờ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc giao đất cho cơ quan, tổ chức để bố trí đất cho người lao động tự làm nhà ở hoặc xây dựng nhà ở để phân cấp cho người lao động;
- Bản sao giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật Đất đai và các giấy tờ như đã nêu trên, nhưng có xác nhận của UBND cấp huyện, cấp tỉnh hoặc cơ quan quản lý chuyên ngành cấp huyện, cấp tỉnh đối với trường hợp bản gốc giấy tờ này đã bị thất lạc và cơ quan Nhà nước không còn lưu giữ hồ sơ quản lý việc cấp loại giấy tờ đó.
Việc bổ sung những quy định nêu trên sẽ bảo đảm hơn sự công bằng trong việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giữa trường hợp có cùng nguồn gốc sử dụng đất và trường hợp đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà có các giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều 50 của Luật Đất đai năm 2003, nhưng vì các lý do khách quan mà người sử dụng đất không có các giấy tờ đó. Quy định này cũng sẽ góp phần tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc hiện nay trong thực hiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để bảo đảm hoàn thành việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên phạm vi cả nước theo Nghị quyết số 30/2012/QH13 của Quốc hội.
P.V (tổng hợp)