Ung thư cổ tử cung (UTCTC) đứng thứ 2 trong các ung thư sinh dục ở nữ giới về tỷ lệ mắc cũng như tỷ lệ tử vong. Căn bệnh này tạo ra các gánh nặng bệnh tật lớn cho người bệnh, gia đình, hệ thống y tế và toàn xã hội.
Ung thư cổ tử cung (UTCTC) đứng thứ 2 trong các ung thư sinh dục ở nữ giới về tỷ lệ mắc cũng như tỷ lệ tử vong. Căn bệnh này tạo ra các gánh nặng bệnh tật lớn cho người bệnh, gia đình, hệ thống y tế và toàn xã hội.
Trẻ em gái tiêm vaccine phòng ung thư cổ tử cung tại Trung tâm Kiểm soát bệnh tật tỉnh. Ảnh: H.H |
* Sàng lọc UTCTC rất quan trọng
Nguyên nhân hàng đầu mắc UTCTC là do nhiễm 1 hoặc nhiều tuýp Human Papilloma Virus (HPV), virus gây u nhú ở người. Cho đến nay, đã phát hiện khoảng 150 tuýp HPV, trong đó có hơn 30 tuýp thường lây lan qua quan hệ tình dục, một số ít trường hợp người bệnh không quan hệ tình dục, chỉ tiếp xúc ngoài da nhưng vẫn có nguy cơ bị lây nhiễm. Các tuýp thường gặp gây UTCTC là 16, 18, 31, 33 và 45.
Trên thế giới, cứ 2 phút lại có 1 phụ nữ chết do UTCTC. Tại Việt Nam, ước tính cứ 100 ngàn phụ nữ thì có 20 trường hợp mắc bệnh UTCTC và 11 trường hợp tử vong. Một trong những lý do dẫn đến tỷ lệ mắc UTCTC cao là do phụ nữ chưa được sàng lọc định kỳ và chưa có hệ thống để phát hiện sớm ung thư qua các xét nghiệm; kiến thức về phòng bệnh UTCTC ở phụ nữ còn hạn chế.
Do đó, sau các biện pháp như: có lối sống tình dục an toàn, tiêm vaccine phòng nhiễm HPV, tránh hoặc làm giảm các yếu tố nguy cơ khác như: lập gia đình sớm, có con sớm, hút thuốc lá (kể cả chủ động và thụ động) thì biện pháp sàng lọc phát hiện sớm bệnh UTCTC từ khi chưa có biểu hiện lâm sàng cũng vô cùng quan trọng. Vì khoảng thời gian hình thành và phát triển tổn thương tiền UTCTC tương đối dài, từ 3-7 năm, nên khi được sàng lọc phát hiện sớm các tổn thương này có thể xử trí và điều trị kịp thời, giúp giảm tỷ lệ mắc và tử vong do UTCTC. Sau khi được phát hiện, tổn thương tiền ung thư có thể được điều trị bằng các phương pháp cắt bỏ (khoét chóp bằng dao, dao điện, laser) hoặc phá hủy (áp lạnh, đốt điện, hóa hơi bằng laser).
Các biện pháp sàng lọc phát hiện sớm UTCTC bao gồm: xét nghiệm tế bào cổ tử cung, quan sát cổ tử cung với dung dịch acid acetic hoặc dung dịch lugol, xét nghiệm HPV.
* Đối tượng và tần suất sàng lọc UTCTC
Phụ nữ nên được sàng lọc UTCTC trong độ tuổi 21-65, đã quan hệ tình dục, ưu tiên nhóm phụ nữ nguy cơ trong độ tuổi 30-50.
Phụ nữ từ 21-29 tuổi thực hiện xét nghiệm tế bào học mỗi 3 năm/lần. Không cần thiết xét nghiệm HPV ở phụ nữ 21-29 tuổi vì tần suất nhiễm chủng HPV sinh ung thư ở tuổi này khoảng 20%, hầu hết trường hợp nhiễm HPV sẽ biến mất mà không cần can thiệp. Khi phát hiện nhiễm HPV sẽ gây ra lo lắng, tốn chi phí tái khám và xử trí không cần thiết.
Phụ nữ từ 30-65 tuổi nên thực hiện đồng thời xét nghiệm tế bào học và xét nghiệm HPV mỗi 5 năm hoặc có thể xét nghiệm tế bào học mỗi 3 năm/lần.
Phụ nữ trên 65 tuổi có thể ngừng sàng lọc nếu có ít nhất 3 lần xét nghiệm sàng lọc có kết quả âm tính hoặc ít nhất 2 lần sàng lọc đồng thời bằng tế bào học và HPV có kết quả âm tính; không có kết quả xét nghiệm bất thường trong vòng 10 năm trước đó; đã cắt tử cung toàn phần vì bệnh lý lành tính.
Đối với phụ nữ đã tiêm phòng vaccine HPV vẫn cần tuân thủ lịch trình sàng lọc ung thư cổ tử cung thường quy.
BS Hồ Hồng (CDC Đồng Nai)