Báo Đồng Nai điện tử
Hotline: 0915.73.44.73 Quảng cáo: 0912174545 - 0786463979
En

Hạnh phúc của tôi đến từ những lớp học không lời

10:08, 22/08/2014

Có một trung tâm đào tạo chương trình học cấp 2, 3 và đại học cho người điếc đầu tiên, giảng dạy bằng ngôn ngữ ký hiệu tại Việt Nam, hiện đặt tại Trường đại học Đồng Nai.

Có một trung tâm đào tạo chương trình học cấp 2, 3 và đại học cho người điếc đầu tiên, giảng dạy bằng ngôn ngữ ký hiệu tại Việt Nam, hiện đặt tại Trường đại học Đồng Nai. Dự án hoạt động từ năm 2000, lặng lẽ với những lớp học không lời. Ở thời điểm trước năm 2000, phương pháp giảng dạy cho người điếc tại Việt Nam vẫn là dùng lời nói.

Ngôn ngữ ký hiệu phát triển lâu đời và không xa lạ gì tại các quốc gia phát triển, nhưng tại Việt Nam mới chỉ là những bước đi đầu tiên và những người thực hiện dự án đang nỗ lực cho những nền tảng ấy. Th.S Nguyễn Thị Hòa, người đã cùng TS. James Woodward đưa dự án về Việt Nam, nói rằng hạnh phúc của bà đến từ những lớp học không lời ấy.

* Điều gì đã dẫn dắt bà từ một cô giáo dạy Toán bình thường đến với việc giảng dạy cho người điếc và sau đó là gắn bó đời mình với Dự án giáo dục trung học - đại học cho người điếc Việt Nam đặt tại Đồng Nai?

- Tôi tốt nghiệp ngành sư phạm Toán, ra trường năm 1983, dạy học tại TP.Hồ Chí Minh đến năm 1989, cơ duyên đưa đẩy, tôi trở thành giáo viên tại trường điếc ở quận Bình Thạnh, TP.Hồ Chí Minh. Mấy năm sau, tôi làm việc cho một tổ chức phi chính phủ Pearl S.Buck, Int. Khi làm việc ở tổ chức này, tôi đã may mắn được gặp TS. Woodward, người đã tiếp sức cho ước mơ của tôi về giáo dục cho người điếc Việt Nam. Chúng tôi đã cùng nhau thành lập dự án và cùng làm việc cho đến ngày nay. Trong suy nghĩ của tôi, trẻ điếc cũng có tư duy và sự nhanh nhạy như những trẻ khác và nếu được giáo dục với phương pháp phù hợp, các em có thể tiếp cận và hòa nhập với đời sống bình thường.

* Khác biệt giữa việc giảng dạy học sinh bình thường và học sinh điếc là gì, cả bề ngoài lẫn cách tư duy bên trong?

- Khác biệt lớn nhất là các em điếc không tư duy bằng ngôn ngữ tiếng nói, mà thay vào đó là tư duy bằng hình ảnh và ngôn ngữ ký hiệu và mất một thời gian khá lâu tôi mới nghiệm ra điều này. Một người nghe bình thường từ khi nhỏ, tên gọi sự vật/hiện tượng đã được kết nối với hình ảnh đầy đủ: “cái tủ” trong ngôn ngữ nói sẽ gắn liền với hình ảnh cái tủ trên thực tế. Trẻ điếc không có được sự kết nối như thế hoặc có rất hạn chế trong giai đoạn học ngôn ngữ đầu đời của mình. Chúng phải mất rất nhiều thời gian để kết nối và hiểu một khái niệm vì chúng không nghe được. Ngôn ngữ ký hiệu sẽ giúp giải quyết vấn đề này, thông qua các dấu hiệu từ tay cùng với sự biểu cảm nét mặt, chúng thay cho ngôn ngữ nói bình thường để các em hiểu.

* Tham gia nhóm biên soạn giáo trình học và từ điển kỹ thuật ngôn ngữ ký hiệu đầu tiên tại Việt Nam, bà tìm thấy ý nghĩa gì ở công việc đặc biệt này?

- Ngôn ngữ ký hiệu là ngôn ngữ riêng của cộng đồng người điếc và cũng rất phong phú. Ngôn ngữ ký hiệu tại Mỹ, Anh hay Việt Nam... sẽ có những nét khác nhau dù chúng có cùng một phương pháp tiếp cận. Giáo trình  được chia thành nhiều trình độ từ căn bản đến nâng cao, kèm theo đó là từ điển để tra cứu. Từ năm 2001 chúng tôi bắt đầu và đến tận 2006 mới hoàn thành được tập 1 sau nhiều lần thử nghiệm, tập hợp, bổ sung. Tôi rất vui vì chính các em điếc cũng đã góp phần hỗ trợ chúng tôi thực hiện bộ giáo trình đặc biệt này.

Mong mỏi của cá nhân tôi là thông qua các giáo trình, các cuốn từ điển, ngôn ngữ ký hiệu Việt Nam sẽ từng bước hoàn thiện và lan tỏa, xã hội sẽ có nhiều người học ngôn ngữ ký hiệu và sử dụng để phá bỏ dần rào cản trong giao tiếp và khoảng cách trong tri thức của người điếc.

* Mục tiêu của dự án là đào tạo giáo viên nguồn, để từ đó lan tỏa ra cộng đồng người điếc ở nhiều nơi. Sau gần 15 năm thực hiện, bà có hài lòng với kết quả không?

- Tôi vui và hài lòng. Sau nhiều nỗ lực, đến nay chúng tôi đào tạo được trên 200 học viên tốt nghiệp các bậc học phổ thông và đại học, con số nhỏ nhoi thôi nhưng là sự cố gắng lớn của nhiều người. Đây là dự án đầu tiên đào tạo người điếc học hết cấp 2, cấp 3 và đại học tại Việt Nam. Tôi cũng có những niềm tự hào khác về dự án. Ví dụ, em Nguyễn Trần Thủy Tiên đã vượt lên 32 đối thủ người điếc ở các nước để giành được học bổng WDL (kỹ năng lãnh đạo điếc thế giới) của Trường đại học Gallaudet, hiện đang học thạc sĩ ở Mỹ về chuyên ngành giảng dạy ngôn ngữ ký hiệu. Và có 17 em tốt nghiệp cử nhân cao đẳng ngành giáo dục tiểu học đang tham gia làm việc ở trung tâm chúng tôi và một số tỉnh, thành khác.

* Dự án cũng là nơi “se duyên” cho bà với chồng - TS.James Woodward, một trong những người rất nổi tiếng về ngôn ngữ ký hiệu trên thế giới. Bà và chồng gặp gỡ nhau ra sao?

- Chúng tôi gặp nhau từ năm 1998, quá trình làm việc chung trong 1 dự án khác. Chồng tôi người Mỹ, anh làm việc ở Trường đại học Gallaudet của Mỹ được 25 năm, cũng trong chuyên ngành ngôn ngữ ký hiệu và giảng dạy Anh văn và ngôn ngữ học cho người điếc. Sau khi xin nghỉ hưu sớm, anh quyết định dành thời gian còn lại của mình để phát triển các dự án giáo dục ngôn ngữ ký hiệu cho người điếc tại các nước châu Á. Chúng tôi gặp nhau lần đầu tiên khi anh được Tổ chức Pearl.S.Buck mời sang Việt Nam để huấn luyện về ngôn ngữ ký hiệu cho giáo viên. Lúc bấy giờ tôi đang làm điều phối viên dự án cho Tổ chức Pearl.S.Buck - quỹ từ thiện do nữ văn sĩ Pearl.S.Buck thành lập dành cho trẻ mồ côi và khuyết tật.

Từ năm 1996, anh đã có ý tưởng thành lập một chương trình đào tạo giáo viên điếc dạy ngôn ngữ ký hiệu cho người điếc tại Việt Nam, như đã từng làm tại Thái Lan. Và tôi nhận ra giá trị của ý tưởng này do có cùng chí hướng. Chúng tôi cùng tìm hiểu, thảo luận và viết dự án. Sau khi dự án hoàn thành, được phê duyệt và nhận tài trợ cũng là khi chúng tôi nhận ra tình cảm dành cho nhau.

* Hạnh phúc trong quan niệm của bà là gì?

- Hạnh phúc đó cũng giản dị thôi. Trong cuộc sống, tôi biết mình đã làm được điều gì đó có ích cho người khác. Đó là động lực lớn nhất.

Những ngày đầu khi muốn thành lập dự án tại Việt Nam, tôi phải tìm được một địa phương hay cơ quan nào đó chấp nhận ý tưởng của chúng tôi, còn TS.Woodward thì vận động kinh phí cho dự án. Hai năm ròng rã, chúng tôi đã gõ cửa vài nơi, bay đi bay về giữa Thái Lan - Việt Nam để nghiên cứu mô hình, vận động quỹ Nhật Bản (The Nippon Foundation) chịu tài trợ. Và may mắn là Sở GD-ĐT và UBND tỉnh Đồng Nai đã chấp nhận và tạo điều kiện để dự án ra đời. Tháng 5- 2000 thì dự án chính thức được triển khai tại Đồng Nai. Ban đầu, dự án đặt ở Trường đại học Lạc Hồng, sau này dời về Trường đại học Đồng Nai.

Nhiều em tâm sự với tôi rằng em không biết mình sống làm gì? Và liệu đời sống của chúng có thể có ích cho ai hay không, hay chỉ đem lại phiền phức cho cộng đồng, cho cha mẹ? Những trăn trở ấy hoàn toàn là chính đáng khi bạn sinh ra và bị khuyết đi một vài kỹ năng cơ bản nào đó. Nhưng tôi tin, nếu các em được giáo dục và học hành đến nơi đến chốn bằng phương pháp phù hợp, các em hoàn toàn có thể sống có ích và làm được những điều mà người khác làm.

* Những tâm nguyện và mong mỏi của bà trong tương lai là gì? Bà có tiếp tục gắn bó với những công việc dành cho cộng đồng người điếc?           

- Tôi vừa hoàn thành khóa học thạc sĩ về khoa học giáo dục cho người điếc tại Mỹ. Chồng tôi hiện đang làm việc ở Hong Kong cho một dự án tự điển ngôn ngữ ký hiệu của châu Á - Thái Bình Dương và thực hiện công trình nghiên cứu ngôn ngữ ký hiệu Hawaii tại Trường đại học Hawaii, Mỹ. Dự án tại Việt Nam, anh vẫn làm giám đốc và tôi là người điều hành chính. Hàng ngày chúng tôi vẫn nói chuyện, trao đổi công việc hay những vướng mắc phát sinh từ dự án. Những dịp nghỉ lễ, tôi sang Hong Kong hoặc anh bay về Việt Nam. Ngoài tình vợ chồng, chúng tôi còn chung chí hướng và tôi nể trọng anh như một người thầy lớn của mình. Chúng tôi không có con nên tâm huyết, và thời gian còn lại chúng tôi đều dành hết để phát triển những dự án, giáo trình, phương pháp giáo dục dành cho người điếc. Tôi thấy mình viên mãn và hạnh phúc vì điều đó.

 Xin cảm ơn bà!

Kim Ngân (thực hiện)

 

 

Tin xem nhiều