
Được phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ ưu tú (NSƯT) vì những đóng góp cho nghệ thuật chuyên nghiệp vào năm 2006, song quá trình gắn bó với đất Đồng Nai của NSƯT Đức Sìn lại được biết đến ở một khía cạnh khác: là một trong những người gắn bó lâu bền với phong trào văn nghệ quần chúng, nỗ lực giữ lửa cho nghệ thuật sân khấu bén rễ sâu và lan tỏa rộng hơn trong quần chúng.
![]() |
Được phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ ưu tú (NSƯT) vì những đóng góp cho nghệ thuật chuyên nghiệp vào năm 2006, song quá trình gắn bó với đất Đồng Nai của NSƯT Đức Sìn lại được biết đến ở một khía cạnh khác: là một trong những người gắn bó lâu bền với phong trào văn nghệ quần chúng, nỗ lực giữ lửa cho nghệ thuật sân khấu bén rễ sâu và lan tỏa rộng hơn trong quần chúng. Ông đã thực hiện hàng trăm chương trình văn nghệ quần chúng, kịch ngắn do ông dàn dựng đã đoạt các giải thưởng lớn nhỏ trong tỉnh, khu vực và toàn quốc. Ông nói, chỉ mong góp sức lan tỏa giá trị của sân khấu trong quần chúng - nơi mà mình không được trả cát-sê.
* Sinh ra và lớn lên ở miền Bắc, trưởng thành từ sân khấu chèo, vì sao ông chọn Đồng Nai làm nơi lập nghiệp?
- Tôi trưởng thành từ sân khấu chèo, được coi là thế hệ thứ 4 của sân khấu chèo miền Bắc từ sau 1954. Khi hòa bình lập lại ở miền Bắc, nhiều đoàn văn công và đoàn chèo được thành lập. Hai đoàn chèo lớn bấy giờ là hữu ngạn sông Hồng và tả ngạn sông Hồng (Nhà hát Chèo Trung ương, Đoàn chèo Tả ngạn, sau này là Đoàn chèo Hải Phòng). Tôi học ngành sân khấu từ 1976-1980, sau đó về công tác tại Đoàn chèo Hải Phòng. Đến năm 1997, tôi vào nhận công tác tại Đồng Nai . Ở miền Nam không phải là cái nôi của chèo như miền Bắc, song sức sống của chèo vẫn tồn tại bền bỉ cùng với những người miền Bắc sống tại miền Nam, và thậm chí sự say mê đó còn mãnh liệt hơn khi họ xa quê hương. Chỉ có điều, tôi chuyển từ vị trí một diễn viên chèo trên sân khấu chuyên nghiệp sang một vai trò khác: góp sức để làm lan tỏa các giá trị của chèo nói riêng và nghệ thuật sân khấu nói chung đến cộng đồng.
* Một nghịch lý là miền Bắc có rất nhiều đoàn nghệ thuật cải lương, song miền Nam lại không quá mặn mà với nghệ thuật chèo. Ông có nghĩ mình đã sai khi “lội ngược dòng”?
- Đúng là nhìn qua sẽ thấy như thế, song tôi không nghĩ mình “lội ngược dòng”. Tôi cho rằng nhu cầu hưởng thụ nghệ thuật sân khấu truyền thống của người dân miền nào cũng có. Nếu miền Bắc tiếp nhận cải lương một cách nhiệt thành thì miền Nam cũng yêu chèo được, chưa kể số lượng người dân gốc Bắc sinh sống tại miền Nam rất nhiều. Vấn đề là phải có những đoàn nghệ thuật chèo, sân khấu chèo bài bản để thu hút người xem. Đáng buồn là cả miền Nam hầu như chưa thành lập được một đoàn nghệ thuật chèo nào riêng biệt và bài bản.
Tuy vậy, sức sống của chèo nói riêng và nghệ thuật sân khấu nói chung trong lòng cộng đồng là khá bền bỉ. Mặc dù không có một sân khấu chuyên nghiệp riêng tư nào, nhưng Đồng Nai có nhiều câu lạc bộ dân ca, và hoạt động sân khấu quần chúng ở nhiều nơi: Biên Hòa, Vĩnh Cửu, Tân Phú, Xuân Lộc, Định Quán, Long Thành... Chúng tôi thi thoảng hướng dẫn, tập huấn về chuyên môn, còn lại là do các anh chị em, bà con yêu mến chèo, yêu mến kịch nói, đờn ca tài tử... những người cùng có sở thích, tự nguyện góp mặt và cùng nhau duy trì. Đó là điều đáng mừng.
* Gắn bó với các hoạt động văn nghệ quần chúng gần 20 năm, dù được yêu mến song danh tiếng và tiền bạc không nhiều. Ông có chạnh lòng không?
- Tôi có những niềm vui và hạnh phúc riêng. Trong suy nghĩ của tôi, sân khấu truyền thống là những giá trị khởi sinh từ truyền miệng, có sức sống và không thể “nhốt” trong bảo tàng, trái lại phải được lan tỏa bằng cách này cách khác đến cộng đồng. Điều đó làm cho nó “sống” từ thế hệ này sang thế hệ khác. Nếu thế hệ sau không hiểu, không yêu, thì những giá trị đó hiển nhiên có thể lụi tàn, mất mát.
Niềm vui, niềm hãnh diện của một người nghệ sĩ khi đứng trên sân khấu trở thành tâm điểm của các buổi biểu diễn là một hạnh phúc lớn, nhưng việc góp sức làm lan tỏa những giá trị của nghệ thuật sân khấu đến cộng đồng, góp phần nuôi dưỡng và gìn giữ nó lại là một hạnh phúc khác.
* Khởi đầu với vai trò một diễn viên chèo, nhưng gần 20 năm qua, ông đồng thời tham gia gầy dựng phát triển bộ môn kịch nói tại Đồng Nai. Vì sao ông chọn kịch nói?
- Xuất thân từ chèo, nhưng trong quá trình làm công tác tuyên truyền, thông tin lưu động tôi cũng chuyển hướng sang kịch nói. Nguyên do là loại hình sân khấu hiện đại này dễ dàng trong việc tiếp cận với công chúng hơn, truyền tải lượng thông tin nhanh, khuyến khích cộng đồng tham gia.
| Nghệ sĩ Đức Sìn vốn xuất thân từ cái nôi của nghệ thuật chèo, tham gia hoạt động nghệ thuật trong Đoàn chèo Hải Phòng. Năm 1997, ông vào Đồng Nai lập nghiệp. Quá trình làm Đội trưởng Đội thông tin lưu động của tỉnh đã cho ông nhiều cơ hội tiếp xúc với nghệ thuật quần chúng và “bắt tay” vào nhiều việc: dàn dựng các chương trình ca nhạc, dân ca, kịch ngắn, tham gia dàn nhạc dân tộc, dàn dựng các trích đoạn chèo truyền thống... Nghệ sĩ Đức Sìn vẫn đang “ôm ấp” mong mỏi tạo dựng một sân khấu kịch chuyên nghiệp ở Đồng Nai. |
Mặc dù “sát sườn” với một thị trường lớn như TP. Hồ Chí Minh, phải thừa nhận rằng hoạt động kịch nói của Đồng Nai vẫn khá yếu ớt. Chính vì điều đó, trong nhiều năm chúng tôi cố gắng xây dựng phong trào cho từng địa phương trong tỉnh, và may mắn là cũng có một số hạt nhân khá tốt, nhiều diễn viên đoạt huy chương vàng trong các liên hoan kịch nói toàn quốc không chuyên. Chúng tôi cố gắng dựng các chùm kịch ngắn, các vở ngắn... để duy trì kịch nói. Tháng 10 này, Trung tâm Văn hóa tỉnh sẽ tổ chức “Liên hoan kịch ngắn, kịch vui toàn tỉnh” lần thứ nhất, nhằm đánh giá các hoạt động sân khấu không chuyên trong toàn tỉnh, phát hiện và đào tạo những hạt nhân cho sân khấu không chuyên và tạo điều kiện để bộ môn sân khấu phát triển. Đó cũng chính là điều mà các anh em đã ấp ủ và chuẩn bị trong nhiều năm qua.
* Khán giả Đồng Nai cũng như nhiều nơi khác chưa quen với kịch, và không dễ để họ bỏ tiền mua vé xem kịch. Từng ấp ủ việc xây dựng một sân khấu kịch chuyên nghiệp tại Đồng Nai, đến giờ thì ông nản lòng chưa?
- Nếu Đồng Nai không có phong trào kịch nói, cũng không có sân khấu kịch chuyên nghiệp, thì bộ môn này có thể gọi là “trắng tay”. Kịch ở đâu? Trước đây tôi ấp ủ mong mỏi xây dựng một sân khấu kịch chuyên nghiệp tại Đồng Nai, song chúng tôi thiếu thốn nhiều thứ. Nói cho cùng, TP. Hồ Chí Minh mất gần 20 năm để kịch nói có thể xã hội hóa và đi sâu vào cộng đồng, mới làm cho khán giả chịu bỏ tiền mua vé vào rạp, như: 5B Võ Văn Tần, Idecaf, Hoàng Thái Thanh... xem kịch nói. Chúng ta thiếu một số điều kiện: sân khấu, nghệ sĩ, kinh phí... Những điều này chưa thể giải quyết trong trước mắt, nhưng chúng tôi vẫn tin tưởng và đeo đuổi, vì tôi tin kịch nói hay các loại hình nghệ thuật sân khấu khác có sức sống riêng của nó, cần gây dựng và nuôi dưỡng bằng cách này, cách kia để một ngày nào đó kịch nói có chỗ phát triển tốt tại Đồng Nai.
* Bảo vệ và gìn giữ những giá trị của nghệ thuật sân khấu trong lòng cộng đồng, theo ông khó và dễ chỗ nào? Những mong muốn, ấp ủ của ông là gì sau hàng chục năm gắn bó với nghề?
- Bảo vệ và giữ gìn các giá trị của nghệ thuật sân khấu vừa khó vừa dễ. Dễ, nếu như mình làm cộng đồng hiểu và yêu chúng. Chúng tôi có những buổi nói chuyện chuyên đề về sân khấu truyền thống, diễn mẫu, chia sẻ tại một số trường đại học, trung học... và chúng tôi vui khi các em yêu thích những đặc trưng và giá trị của ca kịch truyền thống, như: tính ước lệ, phương pháp thể hiện của các nhân vật trong các tác phẩm kinh điển của chèo, tuồng, cải lương. Chỉ khi các em hiểu đâu là cái hay, cái đẹp trong nghệ thuật sân khấu thì những giá trị ấy mới có cơ may lan truyền, được giữ gìn và phát triển trong những thế hệ kế tiếp. Bởi chúng chỉ sống được trong tình cảm của cộng đồng.
* Xin cảm ơn ông!
Kim Ngân (thực hiện)













