
Là một đất nước đất không rộng, người không đông mà phải luôn đối phó với mưu đồ chống phá của những nước lớn, có khi là đế chế cường thịnh bậc nhất của thời đại và nhiều phen phải đương đầu với những đạo quân xâm lược lớn mạnh. Đó là một đặc điểm lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta nói chung và thời Lý - Trần nói riêng. Trong hoàn cảnh đó, sức mạnh chiến đấu và chiến thắng của dân tộc ta là sức mạnh của lòng yêu nước và khối đoàn kết toàn dân tộc.
Là một đất nước đất không rộng, người không đông mà phải luôn đối phó với mưu đồ chống phá của những nước lớn, có khi là đế chế cường thịnh bậc nhất của thời đại và nhiều phen phải đương đầu với những đạo quân xâm lược lớn mạnh. Đó là một đặc điểm lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta nói chung và thời Lý - Trần nói riêng. Trong hoàn cảnh đó, sức mạnh chiến đấu và chiến thắng của dân tộc ta là sức mạnh của lòng yêu nước và khối đoàn kết toàn dân tộc.
![]() |
| Trần Hưng Đạo, vị tướng tài thời Lý - Trần đã sớm nhận ra giá trị tích cực của quan điểm thân dân và "khoan thư sức dân". |
* Sức mạnh của khối đoàn kết toàn dân
Lịch sử đã chỉ rõ những cuộc chiến tranh yêu nước thắng lợi đều là những cuộc chiến tranh nhân dân, phát huy được sức mạnh tinh thần và vật chất tiềm tàng của toàn dân. Kháng chiến chống Tống, chống Mông - Nguyên thời Lý - Trần là những minh chứng hùng hồn.
Từ những hoàn cảnh, đặc điểm và thực tế của lịch sử dân tộc, một số nhân vật tiến bộ trong giai cấp phong kiến như Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo... đã nhận thức khá sâu sắc vai trò quyết định của nhân dân trong chiến tranh chống ngoại xâm cũng như trong các biến cố lớn của lịch sử. Trần Hưng Đạo cho rằng "vua tôi đồng lòng, anh em hòa thuận, cả nước chung sức" là nguyên nhân thắng lợi của kháng chiến thời Trần. Theo ông, "chúng chí thành thành", chí dân là bức thành giữ nước. Chính vì nhận thức về vai trò đoàn kết toàn dân là rất quan trọng, Trần Quốc Tuấn đã đề ra "thượng sách giữ nước" là "khoan thư sức dân làm kế rễ bén gốc". Đó là điều kiện tiên quyết để chiến thắng kẻ thù. Ông đã thấy vai trò quyết định của quần chúng nhân dân đối với vĩ nhân trong lịch sử. Trần Quốc Tuấn nói: "Chim hồng học bay được cao là nhờ ở sáu cái lông cánh, nếu không có sáu cái lông cánh ấy thì cũng như chim thường thôi". Như vậy, anh hùng xuất chúng làm nên nghiệp lớn là nhờ sự ủng hộ của quần chúng nhân dân tộc.
* Thân dân và "khoan thư sức dân"
Thấy được sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân trong việc giữ nước, cho nên ngay từ thời Lý việc chăm lo đời sống nhân dân, quan tâm đến nguyện vọng của nhân dân đã được khẳng định là điều quan trọng hàng đầu trong đạo trị nước. Trong bài văn lộ bố khi đánh Tống của Lý Thường Kiệt có viết: "Trời sinh ra dân chúng; vua hiền tất hòa mục. Đạo làm chủ dân cốt ở nuôi dân". Rồi đến bài Minh bia chùa Linh Xứng núi Ngưỡng Sơn đã ca ngợi công đức của Lý Thường Kiệt: "...làm việc thì siêng năng, sai bảo dân thì ôn hậu, cho nên dân được nhờ cậy. Khoan hòa giúp đỡ trăm họ, nhân từ yêu mến mọi người, cho nên nhân dân kính trọng... Thái úy biết dân lấy sự no ấm làm đầu, nước lấy nghề nông làm gốc, cho nên không để lỡ thời vụ. Tài giỏi mà không khoe khoang, nuôi dưỡng đến người già ở nơi thôn dã, cho nên người già nhờ đó mà được yên thân. Phép tắc như vậy có thể gọi là cái gốc trị nước; cái thuật yên dân; sự đẹp tốt đều ở đấy cả". Và một khi việc bồi dưỡng sức dân, chăm lo đời sống nhân dân có một tầm quan trọng như vậy trong đạo trị nước, thì cũng dễ dàng trở thành một tiêu chuẩn chính trị để nhà vua dựa vào đó mà tự răn mình. Năm 1207, vua Lý Cao Tông đã hạ chiếu rằng: "Trẫm còn bé mà phải gánh vác việc lớn, ở tận nơi cửu trường, không biết cảnh khó khăn của dân chúng, nghe lời tiểu nhân là gây nên oán với kẻ dưới. Dân đã oán thì trẫm còn biết dựa vào ai? Nay trẫm sẽ sửa lỗi cùng dân đổi mới". Hay như vua Lý Thánh Tông nhân tiết trời giá lạnh mà cảm thương đến cả "những kẻ bị giam trong ngục xiềng xích khổ sở, ngay gian chưa định, bụng không cơm no, thân không áo ấm" . Và cái tình cảm đó càng tha thiết khi nhà vua nhìn công chúa Động Tiên mà bảo với ngục lại rằng: "Ta yêu con ta cũng như những bậc cha mẹ yêu con cái họ. Trăm họ không biết gì nên phạm vào luật pháp ta rất xót thương. Nên từ nay các tội bất kỳ nặng nhẹ nhất thiết đều khoan giảm" (theo Đại Việt sử ký toàn thư). Với tinh thần khoan dung nói trên, nhà Lý đặt chuông lớn ở Long Trì để dân "ai có điều oan ức không bày tỏ được" thì đến đánh chuông tâu vua. Nhà Lý còn dựng cung Long Đức ở ngoài Hoàng thành, trong khu vực phố phường cho Hoàng thái tử ở, để có điều kiện "gần dân và xem xét việc dân" . Hay trước họa xâm lăng của đế chế Mông - Nguyên, nhà Trần mở hội nghị Diên Hồng để cùng các vị bô lão - những người đại biểu đầu bạc có uy tín của dân - bàn kế đánh giặc. Trong ngày hội non sông đó, các bô lão đã nói lên tiếng nói của toàn dân "muôn người như một" là "quyết đánh". Điều đó cho thấy, thời Lý - Trần, sự quan tâm đến dân được đề ra như một vấn đề khẩn thiết của đạo trị nước, nhưng vấn đề đó lại được coi là một yếu tố của khái niệm đức trị. Bởi thời đó quan niệm rằng, vua mà có đức và biết sửa đức thì "án trạch thấm thía đến quần chúng" làm cho "dân sinh sống dễ dàng" và "muôn họ âu ca" trong cảnh thái bình thịnh trị.
Như vậy, trên vũ đài chính trị và tư tưởng thời Lý - Trần, nhân dân đã được nhìn nhận như một lực lượng xã hội cần phải quan tâm đến khi tiến hành những cuộc chiến tranh giữ nước và duy trì trật tự xã hội nhằm đem lại sự thịnh vượng cho nước nhà. Và giá trị tích cực của quan điểm thân dân, "khoan thư sức dân" trong thời Lý - Trần chính là ở chỗ đó.
Thanh Thủy



![[Video_Chạm 95] Phường Bình Phước](/file/e7837c02876411cd0187645a2551379f/122025/4_c95_binh_phuoc.mp4.00_00_45_19.still001_20251221105654.jpg?width=400&height=-&type=resize)










