Báo Đồng Nai điện tử
Hotline: 0915.73.44.73 Quảng cáo: 0912174545 - 0786463979
En

Các nhà văn miền Nam với Hà Nội

11:07, 01/07/2010

Những ai đã từng sống và học tập, làm việc ở Hà Nội đều có một cảm nhận này: Hà Nội là mảnh đất ngàn năm văn hiến, là nơi hội tụ tinh hoa văn hóa của đất nước, là chốn tập trung nhiều nghệ sĩ tài năng và tâm huyết. Đối với các văn nghệ sĩ miền Nam, điều cảm nhận ấy càng rõ nét.

Những ai đã từng sống và học tập, làm việc ở Hà Nội đều có một cảm nhận này: Hà Nội là mảnh đất ngàn năm văn hiến, là nơi hội tụ tinh hoa văn hóa của đất nước, là chốn tập trung nhiều nghệ sĩ tài năng và tâm huyết. Đối với các văn nghệ sĩ miền Nam, điều cảm nhận ấy càng rõ nét.

Hà Nội luôn là nguồn cảm hứng vô tận cho thơ ca.

Khi tập kết ra Bắc năm 1954, các nhà văn - nhà thơ: Anh Đức, Nguyễn Quang Sáng, Đoàn Giỏi, Nguyên Ngọc, Thu Bồn, Hoàng Văn Bổn, Hoài Vũ, Phạm Hổ, Nguyễn Thành Long... còn rất trẻ. Trước đó, họ đã có một số tác phẩm gây tiếng vang ở quê hương, tuy nhiên vốn sống, vốn văn hóa, kinh nghiệm sáng tác còn hạn chế. Nhưng bù lại họ có niềm đam mê, chí cốt với nghề, quyết tâm viết được những tác phẩm xứng đáng với quê hương đất nước. Ra Hà Nội, họ đã gặp ngay một mảnh đất màu mỡ để tài năng nẩy nở, vươn lên một tầm cao mới. Họ được học lớp bồi dưỡng ở Trường viết văn Nguyễn Du, đi tham quan thực tế ở trong và ngoài nước, tiếp xúc với nhiều nguồn sách báo. Và nhất là được các nhà văn, nhà thơ đàn anh ân cần dìu dắt, được bạn bè đồng nghiệp động viên khích lệ, tạo ra không khí thân mật ấm cúng, kích thích sáng tạo văn học. Nhà văn Anh Đức tâm sự: “Thành thật mà nói thời gian ở miền Bắc tôi được học hỏi rất nhiều nhưng không phải học hỏi ở trường vì tôi chưa hề dự một trường trại viết văn nào. Tôi học ở sách, ở người, người đây là các nhà văn lớp trước, trong đó có những nhà văn thực sự có tài và nổi tiếng mà tôi được đọc hầu hết tác phẩm của họ từ lúc còn nhỏ. Là một người viết trẻ, tôi hết sức quý trọng các anh chị ấy. Trước hết là do đọc sách của họ, sau do nhờ sống chung biết được phẩm cách của họ. Phẩm cách lớn nhất là hầu hết họ đứng về nhân dân, đi theo ngay với cách mạng và kháng chiến. Tôi về công tác ở Hội Nhà văn vài tháng sau khi Hội thành lập, năm 1957, ở giữa những Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Tuân, Nguyên Hồng, Nguyễn Huy Tưởng, Chế Lan Viên, Tô Hoài, Nguyễn Đình Thi, Bùi Hiển, Kim Lân, Xuân Diệu, Tú Mỡ... Tôi để ý thấy các anh chị lớp trước như anh Nguyên Hồng mỗi khi giải đáp điều gì, dù nhỏ, cho lớp trẻ chúng tôi cũng đều chu đáo, cẩn trọng”. (Con đường chúng tôi đi qua - Truyện ngắn và bút ký Anh Đức). Nhà văn Nguyễn Tuân thường chăm sóc nhà văn trẻ Nam bộ Anh Đức. Là một người rất nghiêm khắc, ông dõi theo từng sáng tác và mỗi khi Anh Đức viết được tác phẩm tốt ông đến bắt tay động viên. Ông khen Anh Đức: “Văn đã có giọng riêng, giọng miệt vườn”. Ở Hà Nội, nhà văn Anh Đức viết tiểu thuyết “Một chuyện chép ở bệnh viện” và một số truyện ngắn. Năm 1962, sau tám năm ở Hà Nội, nhà văn Anh Đức trở về chiến trường miền Nam và đã viết nên một loạt tác phẩm có giá trị: Bức thư Cà Mau, Hòn Đất, Giấc mơ ông lão vườn chim... Nhà văn Nguyễn Quang Sáng - người có nhiều tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch bản phim thành công không bao giờ quên được kỷ niệm với nhà văn đàn anh Nguyễn Huy Tưởng: “Trong những ngày đi thực tế ở Điện Biên, anh thường viết thư động viên tôi viết về cuộc kháng chiến ở Nam bộ chúng ta - đất xa xôi của Tổ quốc, nhưng nằm ấm áp trong lòng mỗi người Việt Nam (lời anh Nguyễn Huy Tưởng). Trong thư hoặc trong câu chuyện, anh luôn nhắc đến miền Nam”. Nguyễn Huy Tưởng thường kể cho các nhà văn trẻ Nam bộ nghe các tiểu thuyết, truyện, kịch của nước ngoài và phân tích rút ra điều hay, điều dở. Đặc biệt, ông hay kể về cuộc đời, tinh thần lao động phi thường của các nhà văn thế giới để làm gương cho lớp trẻ. Khi nhà văn Nguyễn Quang Sáng hoàn thành bản thảo tiểu thuyết Đất lửa lần đầu, nhà thơ Hoàng Trung Thông và nhà văn Nguyễn Huy Tưởng nghe đọc và góp ý sửa chữa. Nguyễn Huy Tưởng kêu lên: “Đất của tiểu thuyết! Cuộc sống ngồn ngộn, roi rói, đầy sẵn. Chỉ cần tay nghề vững nữa thôi”. Khi cuốn sách được đưa in, nhạc sĩ - họa sĩ Văn Cao giúp vẽ bìa. Nhà văn Đoàn Giỏi - tác giả Đất rừng phương Nam luôn coi Nguyễn Tuân, Tô Hoài, Nguyễn Huy Tưởng như người anh, người thầy. Năm 1955 mới tập kết ra Bắc, bạn đọc miền Bắc đã kinh ngạc, khâm phục với những bài bút ký sắc sảo, tài hoa của Đoàn Giỏi: Đèn tôi bay về Lục Hồ Chí Minh, Cây đước Cà Mau, Ngọn tầm vông. Nhà văn Nguyễn Huy Tưởng đã nhận xét vui: “Thấy vảy, thấy cựa, thấy có mào và có mã rồi đấy, đứng được trường chọi đấy nhưng phải công phu nữa”. Mặc dù rất thích sắc thái, ngôn ngữ Đoàn Giỏi nhưng Nguyễn Huy Tưởng vẫn nhắc nhở chớ có lạm dụng làm cho tác phẩm khó hiểu, khó tiếp thu. Sau năm 1975, Đoàn Giỏi còn nấn ná ở Hà Nội mấy năm nữa rồi mới chuyển vào Sài Gòn. Ở Sài Gòn, nhà văn có lúc ngậm ngùi than vãn: “Ở Hà Nội thì mình nhớ Sài Gòn, về Sài Gòn lại nhớ Hà Nội, đâu là quê, cũng chẳng biết. Ba mươi năm  vui buồn sống chết với thủ đô. Một nửa đời người...”. Lời tâm sự của nhà văn Đoàn Giỏi cũng chính là tình cảm sâu sắc của các nhà văn miền Nam với Hà Nội.

Nhà văn Hoàng Văn Bổn còn nhớ những ngày học lớp bồi dưỡng viết văn ở Quảng Bá năm 1962. Ông được gặp những người thầy như Đặng Thái Mai, Nguyễn Đình Thi, Tô Hoài, Kim Lân, Bùi Huy Phồn... để từ đó có cái văn hóa nền làm đà cho sáng tác sau này. Nhà văn Hoàng Văn Bổn còn lưu giữ trong kho ký ức hình ảnh giáo sư Đặng Thái Mai dạy văn học phương Tây “Giọng ấm áp và diễn cảm theo tình huống trong tác phẩm, đôi khi kèm theo cả điệu bộ... Hầu hết các tác phẩm ông giảng dạy là bi kịch, bi kịch cổ điển. Ông hoàn toàn chìm đắm trong trạng huống bi kịch số phận nhân vật như số phận vua Lia hay số phận nàng An-đrô-mác. Cả lớp liêu xiêu mơ màng theo ông, theo từng bước đi của ông mà lần tìm lại thân phận con người cách nay hàng nhiều thế kỷ qua chiếc cầu nối là giáo sư Đặng Thái Mai” (Vũ trụ - Hoàng Văn Bổn). Nhà văn Nguyễn Đình Thi - Tổng thư ký Hội Nhà văn Việt Nam là thầy của nhà văn Hoàng Văn Bổn ở trường viết văn, tình cờ gặp nhau ở trước trụ sở Hội Nhà văn, ông động viên: “Tối qua mình có xem phim Hàm rồng của ông. Hay lắm. Lại được đọc ba số ký sự Hàm rồng trên báo Văn Nghệ. Khá. Thôi lúc này làm được gì cho cuộc kháng chiến giải phóng đất nước cũng rất quý, Bổn à...”.

Lời động viên chân tình của người lãnh đạo Hội Nhà văn đã giúp cho nhà văn Hoàng Văn Bổn thêm động lực hăm hở đi vào mặt trận, hăm hở viết. Một lớp nhà thơ như: Nguyễn Khoa Điềm, Lê Anh Xuân, Diệp Minh Tuyền... khi tập kết ra Bắc theo học các trường học sinh miền Nam, sau đó tốt nghiệp các trường đại học tổng hợp, đại học sư phạm. Từ cái nôi văn hóa Hà Nội họ trở vào chiến trường miền Nam và đã có những đóng góp cho văn học miền Nam như chúng ta đã biết.

(Còn tiếp)

Bùi Quang Tú

 

 

 

Tin xem nhiều