Báo Đồng Nai điện tử
Hotline: 0915.73.44.73 Quảng cáo: 0912174545 - 0786463979
En

Hồ Lục Thủy

08:06, 17/06/2010

Tôi gọi Hồ Hoàn Kiếm - hồ trả gươm theo cái tên thật xưa mà người dân kinh thành Thăng Long vẫn gọi là hồ Lục Thủy khi bất chợt sáng nay, sau cơn mưa, bắt gặp ngàn con sóng xanh sáng lấp lánh, hòa điệp với màu thanh thiên của trời, màu xanh ngọc của lá sấu non, và hoa bằng lăng giữa hạ vẫn tím hồng bên hoa phượng đỏ rực rỡ soi bóng giữa mây nước.

Tôi gọi Hồ Hoàn Kiếm - hồ trả gươm theo cái tên thật xưa mà người dân kinh thành Thăng Long vẫn gọi là hồ Lục Thủy khi bất chợt sáng nay, sau cơn mưa, bắt gặp ngàn con sóng xanh sáng lấp lánh, hòa điệp với màu thanh thiên của trời, màu xanh ngọc của lá sấu non, và hoa bằng lăng giữa hạ vẫn tím hồng bên hoa phượng đỏ rực rỡ soi bóng giữa mây nước.

 

Đi dưới hàng cây cổ thụ ven hồ, ngắm dáng liễu yêu kiều mướt xanh đang thả tóc trong gió sớm mai, thấy hiển hiện nét đẹp riêng, rất cổ xưa và huyền diệu của hồ, chính là màu lục xanh ngằn ngặt vẫn hiện hữu mỗi sáng mỗi chiều ta qua. Màu xanh thiên tạo ấy, Trần Bá Lãm (1757-1815) đã viết trong lời tựa cho tập thơ "La Thành cổ tích vịnh": "Hồ nằm trong La Thành. Phía nam hồ có bãi nổi, gọi là hồ Hữu Vọng, phía bắc hồ có mô đất nổi gọi là hồ Tả Vọng. Cây cối um tùm nước xanh biếc. Xưa còn có một lạch nhỏ thông ra sông Nhị. Đời Lý Thánh Tông dựng hành cung ở phía nam hồ làm nơi hóng gió. Đời Trần giặc Nguyên xâm lược, vua sai tập thủy quân ở hồ, đặt tên là đầm Thủy Quân. Đến Hoàng Triều, vua Thái Tổ trả lại gươm cho thần ở đó nên gọi là hồ Hoàn Kiếm...". Nay trong hậu cung thờ đức Thánh Trần vẫn còn đôi câu đối chữ nôm, ghi rõ tên hồ Lục Thủy:

Vũ lược luyện hùng binh Lục thủy nghìn xưa ghi sử Việt

Văn tài mưu thượng tướng Bạch Đằng một trận thắng quân Nguyên

Khởi thủy là hồ thiên nhiên giữa kinh thành, phong cảnh hồ nên thơ hữu tình nên vua Lý cho xây hành cung để đón gió ngắm trăng; sau này, chúa Trịnh  cho xây phủ chúa gần hồ, tan cuộc yến tiệc, thường dạo thuyền trên hồ Lục Thủy, vui chơi... Thời Thăng Long bị loạn ly, sĩ phu danh tiếng của Bắc Hà như Vũ Tông Phan, Nguyễn Văn Siêu... lấy Hồ Gươm làm địa điểm tập hợp các cây bút có chí khí và yêu nước trong hội Hướng Thiện để phục hưng văn hóa; xây đình Trấn Ba, Đài Nghiên, Tháp Bút, tu tạo chùa trên đảo Ngọc thành đền Ngọc  Sơn, thờ thần Văn Xương đế quân, giữ gìn và phục hưng  văn hóa dân tộc, làm cho hồ Lục Thủy vốn đã đẹp càng thêm đẹp, thêm thơ. Thần Siêu đã có một tuyệt bút về Hồ Gươm: Một chén trong lòng đất nổi/ Nước dài chở lật trời qua/ Thuyền câu ngày xuân tiễn khách/ Quay chèo về ngủ bên hoa.

Đàm Chu Văn

Thăng Long

Ngựa sắt đã về trời, giặc giã vẫn tràn sang

Những lứa tre đằng ngà phải trồi lên mà giết giặc

Lục Thủy chẳng yên bình làm mực viết

Hịch diệt thù hắt đỏ sóng Hồ Gươm.

                                                        6-2010

 

Cái màu xanh thật biếc, thật trong của trời, thiên tạo ưu ái, chỉ Hà Nội mới có, soi xuống sắc hồ xanh lục, mà thi nhân vẫn thấy trời thẳm trong đáy hồ đến độ lật trời qua, quả là bức tranh thần diệu. Kể từ đó đến nay, đã hai thế kỷ với bao cuộc tang thương, vẫn sắc lục không nhạt phai ấy làm mê hồn khách bốn phương. Trần Đăng Khoa có cái nhìn thật hồn nhiên ngây thơ của cậu bé học trò khi lần đầu tiên đến Hà Nội: "Hà Nội có Hồ Gươm/ Nước xanh như pha mực". Màu thiên tạo ấy, tưởng như quá quen thuộc đến nằm lòng, bốn mùa sắc hồ xanh thẫm, xanh dịu, xanh cô ban... điệp cùng sắc trời. Mặt hồ giỡn sóng bạc trong nắng sớm hay  sóng vàng trong chiều buông với mảnh trăng đầu tháng treo nghiêng trên nền trời xanh pha sắc tím hồng, bao ngày bao tháng bao năm, bao biến đổi thăng trầm, vẫn vẻ đẹp vĩnh hằng, cổ kính mà thanh tân, để ta bồi hồi xao xuyến. Và sớm nay, mặt gương soi mây trời như đẹp hơn, xanh hơn trong nắng thủy tinh. Cây lộc vừng chín gốc xum  xuê ra ngàn búp lá mơn mởn, cây gạo hơn 500 tuổi sừng sững  giữa cao xanh. Từ trên tòa nhà cao tầng của quảng trường Đông kinh nghĩa thục, chiêm ngưỡng vẻ đẹp của Hồ Gươm, cổ kính và thanh tân, với tầng tầng lớp lớp thảm hoa và lá, xanh thẫm, xanh biếc, xanh lục... điệp sắc trong màu lửa của phượng vĩ, màu tím hồng của bằng lăng trải ven hồ như những lẵng hoa khổng lồ, tôi bỗng hiểu vì sao nhà văn Tô Hoài lại có cái thú đi dạo quanh hồ, ngắm và thuộc từng cái cây như lòng bàn tay mình đến thế...

 

Lại nhớ thuở xưa, nhà thơ Vũ Tông Phan mở trường dạy học ven hồ Gươm, lúc thư nhàn, ông thả hồn phiêu diêu cùng trời xanh, hồ xanh, ngắm trăng: "Mặt sóng như gieo ngàn hạt ngọc/ Lòng hồ chia nửa dải tơ xanh". Cái màu lục huyền diệu ấy, theo cách lý giải khoa học của GS. Hà Đình Đức, là do những loài tảo sống trong hồ, nhưng với người Việt từ bốn phương tụ về  thắng địa, Hà Nội - nơi lắng hồn núi sông ngàn năm, thì cái màu lục ấy là cái duyên trời cho Hà Nội, là nét thơ của hồ, nỗi nhớ của con Lạc cháu Hồng đã trải hồn cùng mây trời, sóng nước Hồ Gươm, hồ Lục Thủy để rồi thấm sâu hơn, thắm đượm hơn khi được đất trời  ban tặng linh khí của núi Độc Tôn, hồ Lục Thủy, như đôi câu đối trong đền Ngọc Sơn:

 

Sơn danh bất tại cao, thủy linh bất tại thâm, tự hữu chủ giả.

Thiên trụ lại dĩ tôn, địa duy lại dĩ lập, duy thử hạo nhiên.

Dịch nghĩa:

Núi nổi tiếng không phải vì cao, nước linh thiêng không phải vì sâu, chính vốn là có chủ.

Cột trời do vậy mà vững, dải đất do vậy mà bề, toàn nhờ khí hạo nhiên.

 

(Lời dịch của nhà sử học Nguyễn Vinh Phúc)

Nguyễn Quang Dũng

     

Tin xem nhiều