
Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư về Đại La, đổi tên Đại La thành Thăng Long, từ đấy Thăng Long nghiễm nhiên là "nơi tụ hội của bốn phương đất nước" (Chiếu dời đô).
Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư về Đại La, đổi tên Đại La thành Thăng Long, từ đấy Thăng Long nghiễm nhiên là "nơi tụ hội của bốn phương đất nước" (Chiếu dời đô).
Với vị trí đặc biệt đó, Thăng Long vào buổi bình minh của chế độ phong kiến tự chủ đã xuất hiện người anh hùng Lý Thường Kiệt (1019-1105), với hai áng văn huyền thoại Nam quốc sơn hà và hịch Lộ bố văn. Thăng Long vào thời đại đó cũng tự hào đón nhận Lý Công Uẩn (974-1028), vị vua mở đầu triều đại Lý, với tác phẩm văn xuôi bất hủ Chiếu dời đô. Chính áng văn này đánh dấu một bước ngoặt quan trọng của lịch sử văn hiến Thủ đô. Thăng Long vào hai thế kỷ XIII và XIV là nơi quy tụ những nhân tài kiệt xuất thuộc dòng dõi họ Trần (Nam Định), thay nhà Lý mở ra triều đại Trần cường thịnh, đồng thời cũng cung cấp cho văn học cả một "dàn hợp xướng" đa giọng điệu - có sáng tác yêu nước, có sáng tác Phật giáo, có sáng tác trữ tình - với không ít tên tuổi chói lọi: Trần Thái Tông (1218-1277), Trần Tung (1230-1291), Trần Quốc Tuấn (?-1300), Trần Quang Khải (1241-1294), Trần Thánh Tông (1240-1290), Trần Nhân Tông (1258-1308), Trần Minh Tông (1300-1357), Trần Quang Triều (1287-1325)... Thăng Long vào thế kỷ XV có hai tầm vóc tiêu biểu: Nguyễn Trãi (1380-1442) và Lê Thánh Tông (1442-1497). Họ trở thành những nhà văn nổi tiếng bậc nhất Thăng Long và cả nước, góp phần quyết định cho sự trưởng thành của thơ nôm dân tộc. Vào thế kỷ XVIII, chúng ta có thiên ký sự đột xuất Thượng Kinh ký sự của Lê Hữu Trác (1720-1791, Hải Dương); có tiểu thuyết giàu chất liệu thời sự nóng hổi Hoàng Lê nhất thống chí của dòng họ Ngô Thì (Tả Thanh Oai); có những cuốn tùy bút danh tiếng Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ (1768-1839, Hải Dương); có Tang thương ngẫu lục của Phạm Đình Hổ và Nguyễn Án (1770-1815, Kinh Bắc). Đó là những sáng tác hiếm có viết về cuộc sống hiện thực của Thăng Long trong cơn giông bão của lịch sử Việt
Qua đó cho thấy, "Văn học Thăng Long" không chỉ bó hẹp trong khái niệm do những người sinh trưởng ở đây viết ra, mà còn có những tác phẩm ưu tú của những người từ bốn phương đất nước hội tụ về, coi Thăng Long - Hà Nội là quê hương mình, viết một cách sâu sắc về Kinh đô và cống hiến những năng lực sáng tạo hết mình cho mảnh đất yêu dấu này.
Lịch sử cũng đã chứng minh, hầu hết mọi vương triều nối tiếp ở Thăng Long đều không ít thì nhiều biết đặt cái gốc ở dân. Cho nên, yếu tố dân chủ sơ khai, hiểu theo một nghĩa nào đấy, vốn không phải nảy sinh từ dưới lên mà mới đầu cũng được manh nha từ trên, từ các nhà chấp chính, các bậc thức giả của cung đình. Và, khái niệm "dân" được khởi đầu từ Lộ bố văn của Lý Thường Kiệt, sau đó được Trần Quốc Tuấn nhấn mạnh trong Di chúc, Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông thể nghiệm trong Hội nghị Bình Than và Hội nghị Diên Hồng (1284), Trần Minh Tông nhắc đến trong Nghệ An hành điện, Trần Nguyên Đán (1325-1390) hoài vọng trong Nhâm dần niên lục nguyệt tác, Nguyễn Trãi tổng kết trong Bình Ngô đại cáo và trong nhiều bài thơ chữ Hán... đều là kết quả của việc vận dụng lý thuyết "dân vi quý" của Nho giáo, cộng với sự chiêm nghiệm sâu sắc trong hoạt động thực tiễn của từng người.
Cùng với các bước tiến của lịch sử, một đội ngũ trí thức lớn cũng lần lượt xuất hiện trong xã hội Thăng Long, kế tục phát huy các yếu tố dân chủ buổi đầu, làm cho chúng trở thành có đường nét tư tưởng cụ thể và bắt rễ vào đời sống tinh thần như những nhân tố nội sinh.
Thanh Thủy



![[Video_Chạm 95] Phường Bình Phước](/file/e7837c02876411cd0187645a2551379f/122025/4_c95_binh_phuoc.mp4.00_00_45_19.still001_20251221105654.jpg?width=400&height=-&type=resize)









