
Lý Thường Kiệt (1019-1105) là nhà chính trị kiệt xuất, nhà quân sự thiên tài, có nhiều đóng góp vào sự nghiệp chấn hưng đất nước, giữ vững độc lập dân tộc.
 |
| Tượng Lý Thường Kiệt ở khu du lịch Đại Nam (Bình Dương). |
Lý Thường Kiệt (1019-1105) là nhà chính trị kiệt xuất, nhà quân sự thiên tài, có nhiều đóng góp vào sự nghiệp chấn hưng đất nước, giữ vững độc lập dân tộc.
Lý Thường Kiệt có tên Ngô Tuấn, tự là Thường Kiệt, được vua ban họ Lý, là Lý Thường Kiệt.
Theo sách "Việt điện u linh", Lý Thường Kiệt người phường Thái Hòa, ở bên phải kinh thành Thăng Long, thời Lý; học trò của Lý Công Uẩn, vị vua nổi tiếng với Chiếu Dời đô. Đặc biệt, Lý Thường Kiệt là một danh tướng trải qua 3 triều vua: Thái Tông, Thánh Tông, Nhân Tông và có nhiều công trạng với đất nước.
* Tài thao lược
Là người có chí khí, Lý Thường Kiệt luôn miệt mài học tập; là con nhà võ, nên rất giỏi việc bắn cung, cưỡi ngựa, lập doanh trại, bày trận đồ... Vốn thông minh, không bao lâu mọi phép dùng binh, ông đều thông hiểu. Lại thêm say mê các sách văn chương, đạo đức, nên ông chóng thành tài.
Nổi bật nhất, ông là vị anh hùng chiến thắng ở tất cả các chiến dịch chỉ huy ở phía Nam, phía Bắc nước ta. Năm 1069, chiến thắng Chiêm Thành, mở rộng bờ cõi được 3 châu: Đại Lý, Ma Linh, Bố Chánh. Năm 1075 và 1077 chiến thắng quân Tống hai lần: lần đầu, đánh sang tận các châu Khâm, Ung, Liêm; lần sau đuổi bọn Quách Quỳ, Triệu Tiết ở trận Như Nguyệt, buộc chúng phải rút về. Theo các nhà nghiên cứu lịch sử, đây là chiến thắng lớn nhất và là trận chiến ác liệt nhất kể từ sau trận Bạch Đằng năm 938 của dân tộc Việt trong việc chống phương Bắc xâm lược. Chiến thắng này đã đánh dấu sự thành công về chiến thuật chiến tranh phòng thủ và chủ động tấn công của danh tướng Lý Thường Kiệt trước một nước lớn hơn nhiều lần.
Ngoài tài dẹp giặc, Lý Thường Kiệt còn biết giúp vua chỉnh đốn nội trị. Ông là người đứng ra giải hòa với Lý Đạo Thành (người có công lớn trong việc chính sự và học tập theo Nho học từ thời nhà Lý) với các Hoàng hậu Thượng Dong và Ỷ Lan; đoàn kết triều đình; ở khoa thi Nho học, chấn chỉnh bộ máy hành chính; tu bổ đường sá, đê điều... Năm 1082, ông được giao quản lĩnh trấn Thanh Hóa, đã ổn định được tình hình của trấn này và giành được tình cảm sâu sắc của quần chúng.
* Tác phẩm trường tồn
 |
|
Bia chùa Linh Xứng ghi công lao của Lý Thường Kiệt được trưng bày trang trọng tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam. |
Nói đến Lý Thường Kiệt là nói đến "
Nam quốc sơn hà". Bài thơ ra đời vào cuối năm 1076, khi quân xâm lược Tống do những viên tướng lừng danh Bình Liêu như: Quách Quỳ, Triệu Tiết... chỉ huy cùng 10 vạn bộ binh, 1 vạn ngựa, 20 vạn phu ồ ạt kéo vào nước ta. Dù thế giặc rất mạnh, nhưng quân ta đã dũng mãnh phản kích. Giữa lúc chiến cuộc giằng co, trên bờ Nam sông Cầu Hát (thuộc địa phận sông Như Nguyệt, huyện Yên Phong, lộ Bắc Ninh, nay là huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh), trong đêm tại đền thánh Tam Giang đã vang lên lời thơ quyết chiến, quyết thắng của Lý Thường Kiệt: "Nam quốc sơn hà Nam đế cư/ Tiệt nhiên định phận tại thiên thư/ Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm?/ Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư! (dịch: Sông núi nước Nam vua Nam ở/ Rành rành định phận ở sách trời/ Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm?/ Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời). Sử chép, bài thơ đã có tác dụng rất lớn, đã thúc đẩy toàn quân chiến thắng kẻ thù. Bài thơ ngắn gọn, nhưng nói lên hùng hồn khí phách, tư thế và quyết tâm của dân tộc. Bằng bài thơ đó, Lý Thường Kiệt đã nhân danh cả dân tộc ta, tuyên bố khẳng định quyền độc lập thiêng liêng cũng như quyền bình đẳng của dân tộc, cảnh cáo nghiêm khắc bè lũ xâm lược. Bài thơ in dấu ấn không thể mờ phai trong lịch sử, như bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc sau hơn ngàn năm bị phong kiến nước ngoài đô hộ.
Ngoài "Nam quốc sơn hà", Lý Thường Kiệt còn nổi tiếng với "Phạt Tống lộ bố văn". Đây là bài hịch ông viết gửi nhân dân các châu Ung, Khâm ở Trung Quốc với nội dung công kích chính sách của tể tướng nhà Minh là Vương An Thạch, đồng thời tuyên bố lập trường chính nghĩa của cuộc hành quân nhà Lý phải vào thẳng sào huyệt địch để đánh đòn bất ngờ. Bài văn viết góp phần vào chiến thắng năm 1075.
***
Lịch sử mãi ghi nhớ công ơn của người anh hùng dân tộc, nhà quân sự kiệt xuất, nhà chính trị và ngoại giao tài ba, người con trung hiếu của kinh thành Thăng Long Lý Thường kiệt, người lãnh đạo quân dân Đại Việt thời kỳ phá Tống, bình Chiêm thắng lợi.
Thanh Thủy