
Ngày 18-3-1968, Trung đoàn 8 xong khóa huấn luyện ở vùng núi Côn Sơn, được lệnh vượt Trường Sơn đi B dài (B2) để tăng quân sau cuộc Tổng tấn công Tết Mậu Thân. Mỗi tiểu đoàn đi B có 800 cán bộ, chiến sĩ. Theo kế hoạch, mỗi ngày xuất quân một tiểu đoàn.
Ngày 18-3-1968, Trung đoàn 8 xong khóa huấn luyện ở vùng núi Côn Sơn, được lệnh vượt Trường Sơn đi B dài (B2) để tăng quân sau cuộc Tổng tấn công Tết Mậu Thân. Mỗi tiểu đoàn đi B có 800 cán bộ, chiến sĩ. Theo kế hoạch, mỗi ngày xuất quân một tiểu đoàn.
Thời gian hành quân từ điểm xuất phát đến miền Đông
...Đường hành quân vào tuyến lửa Quảng Bình đêm đi ngày nghỉ, qua nhiều làng mạc, đồng bằng Bắc bộ, làng bản tây Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh. Để tránh sự phát hiện, đánh chặn của không quân Mỹ, tiểu đoàn chỉ hành quân ban đêm, mỗi đêm đi chừng 30km. Ngày cuối cùng ở Quảng Bình, trước khi vượt Trường Sơn các đơn vị được biên chế tự nấu ăn theo tiểu đội, được tăng cường thực phẩm thịt, cá, mắm ruốc, thịt ruốc, rau sấy khô, nước mắm cô đặc..., tất cả được đóng hộp hoặc bịch hút chân không.
Trạm cuối Quảng Bình, khi trời gần tối, máy bay trinh sát của địch hết còn vè vè trên đầu, cả tiểu đoàn đi vào một cái hang khá rộng và tối om (sau này mới biết đây là quần thể danh thắng Phong Nha - Kẻ Bàng). Toàn bộ mặt nước của hang là một chiếc bè tre khổng lồ, kết trên những thùng phuy làm phao. Tiểu đội trưởng đi nhận lệnh về sinh hoạt: "Đêm nay cả tiểu đoàn ngủ, ngày mai trước khi trời sáng vào Trường Sơn để không bị máy bay phát hiện. Cũng từ ngày mai, đơn vị hành quân ban ngày, cứ bốn ngày được nghỉ một ngày để tắm giặt và nhận thực phẩm, lương thực. Kể từ nay, cả đơn vị thực hiện khẩu lệnh "Đi không dấu, nấu không khói, nói không tiếng", vì chúng ta đi trong đường mòn Trường Sơn, không chỉ có máy bay theo dõi trên trời, mà dưới đất còn có thám báo, cây nhiệt đới địch cài cắm để thu tiếng động, dấu vết. Các cậu nhớ không được ăn nắm cơm mang theo, để sáng mai ăn còn có sức leo lên cổng trời".
Phía xa, trung đội trưởng quơ đèn pin soi lính, bắt mọi người phải ngủ. Thực ra, suốt đêm cũng khó có ai ngủ được. Ngồi trên bè bập bềnh, dựa đầu vào ba lô, nghe những giọt nước từ nhũ đá tí tách nhỏ xuống, mơ màng nghĩ về sớm mai sẽ chính thức đi vào đường mòn Hồ Chí Minh, leo lên cổng trời, chính thức giã từ hậu phương lớn; tạm biệt quê hương, gia đình từ ngày nhập ngũ đến lúc đi B không được về phép; tạm biệt những bà mẹ Hà Bắc mỗi lần các con hành quân qua áo rách lại vá áo; tạm biệt những chi đoàn khi chúng tôi dừng chân, những cô gái bê từng chậu nước ấm pha muối để bộ đội ngâm chân... Trời chưa sáng, cả tiểu đoàn đã rời khỏi hang tiến vào rừng, bởi vào thời điểm này máy bay do thám không thể phát hiện. 8 giờ, một dãy núi đá cao vút, vách núi dựng đứng sừng sững trước mặt. Khẩu lệnh truyền xuống "vượt Trường Sơn". Trời mưa lâm râm, sương mù giăng kín những ngọn núi, đường mòn rộng chừng một mét uốn lượn dưới rừng cây, dẫn đến một vách đá gần như thẳng đứng, nơi đặt một chiếc thang bằng cây rừng cao chừng 5 mét. Từng chiến sĩ leo lên, chiếc ba lô nặng cứ kéo ngửa người ra, nhiều chiến sĩ khôn ngoan đeo súng, đạn, gạo về phía trước để cân bằng lại. Tay vịn thang mòn ướt đẫm mồ hôi rất khó bám, Trung đội trưởng đứng trên đầu thang hô "vứt bỏ gậy đi mới bám được", thế là mọi người đều vứt bỏ cây gậy Trường Sơn đầy kỷ niệm xuống vực, dưới sâu từng đống gậy, có nơi tới vài chục ngàn chiếc gậy cũng đã bỏ lại từ trước.
Leo thang, rồi lại len lỏi giữa những mỏm đá tai mèo nhọn nhoắt, rồi lại leo thang, cứ thế leo mãi lên cao về hướng tây, đường trơn không có gậy chống, nhiều chiến sĩ té ngã. Trong huấn luyện, cả đơn vị đã nhiều lần leo lên núi Yên Tử, nhưng so với ngày đầu vượt Trường Sơn thì núi Yên Tử chả thấm gì.
Chúng tôi nối nhau leo mãi lên đỉnh, nơi những mỏm đá tự nhiên cao to nhô cao giữa rừng cây thưa, đây gọi là cổng trời, gió thổi lồng lộng. Đi qua đây ai cũng phải chững lại vì cảnh đẹp, xung quanh phía dưới núi rừng Trường Sơn trùng điệp, mây bay trắng như bông. Một cảm giác thật hùng vĩ của núi rừng Trường Sơn, thật huyền thoại của đường mòn Hồ Chí Minh.
9 giờ, cả đơn vị tiếp tục hành quân trên đỉnh Trường Sơn. Đường mòn ẩn hiện dưới rừng cây khá bằng phẳng, bỗng một loạt bom bi nổ ầm ầm phía trước mặt và tiếng phản lực AD-6 mất hút, cả đội hình phản ứng nhanh nằm xuống tránh bom. Lệnh truyền xuống an toàn, chúng ném tọa độ trúng đường, cách đội hình đi đầu 200 mét, không ai bị thương. Đơn vị vượt nhanh để lại phía sau những thân cây găm đầy những viên bi, mùi thuốc bom khét lẹt.
Ngày đầu vượt Trường Sơn khá vất vả, nếm mùi bom đạn, cả tiểu đoàn đến binh trạm đầu tiên của Trường Sơn an toàn, nấu ăn và nghỉ đêm. Anh giao liên trước khi về đơn vị ghé thăm bộ đội, hướng dẫn cách treo võng, tăng và sửa bếp Hoàng Cầm để nấu không có khói. Anh ta hớn hở cười nói với đám lính trẻ:
- Các cậu thấy đường mòn có huyền thoại không?
- Dạ! Chúng em mới đi được có một ngày.
- Huyền thoại là ở chỗ đường ô tô phải băng qua đoạn thấp ở Nghệ An, Hà Tĩnh, bắc Quảng Bình để sang tây Trường Sơn, nơi đó là mục tiêu trống trải, địch đánh phá suốt ngày đêm. Thế nhưng đường ô tô cũng có lúc mất hút trong rừng sâu, máy bay địch phải chịu thua. Còn đường mòn Hồ Chí Minh để bộ đội vào Nam lại khá gần Vĩ tuyến 17, ở nơi đỉnh núi cao nhất, vách đá hiểm trở, địch không ngờ bộ đội mang vác nặng lại qua được. Nó ném bom hồi sáng chỉ là ném tọa độ vớ vẩn. Các cậu chú ý ban đêm nấu không lửa, ban ngày nấu không khói là an toàn. Ngoài kia rất xa, bộ đội Trường Sơn ngày đêm canh gác, chiến đấu để đường mòn được an toàn. Nhiệm vụ của bộ đội Trường Sơn phải bảo đảm cho bộ đội hành quân, có nghĩa là khi xuất quân 1.000 thì đến điểm tập kết ở miền Đông Nam bộ phải đủ 100% quân số.
Trung Tiến (Còn tiếp)















