
Anh Nguyễn Khanh, một người chạy xe tại vùng núi bên ngoài Đà Nẵng, thành phố phía nam Việt Nam, chỉ 53 tuổi, nhưng trông anh già hơn nhiều cái tuổi ấy.
![]() |
| Các nạn nhân chất độc da cam tại Việt Nam. (Ảnh: Roland Schmid) |
Cậu con trai 14 tuổi của anh sinh ra với tật nứt đốt sống nghiêm trọng và không thể đi lại được, còn cô con gái 7 tuổi của anh thì mắc hội chứng Down. Vợ anh, quá đau đớn vì thương các con, mà tâm thần trở nên mất ổn định. Anh Khanh nói: "Cuộc sống chính là điều gian nan nhất". Anh phải một mình nuôi cả gia đình bằng việc vận chuyển rau đi bán qua các làng, kiếm được khoảng 100 USD mỗi tháng. Anh chỉ biết than, "cuộc đời này thật lắm tai ương".
Khi còn nhỏ, anh được chứng kiến một cuộc chiến đầy khốc liệt. Anh Khanh nhớ lại, từng thấy các lực lượng Mỹ phun xuống khu vực quanh nhà thứ chất làm rụng lá chứa chất hóa học dioxin và được các lực lượng Mỹ sử dụng để hủy hoại cây cối nhằm phát hiện ra sự di chuyển của kẻ thù. Anh nói: "Tôi nhớ đã nhìn thấy chiếc máy bay Mỹ thả một số loại chất hóa học xuống các cánh rừng. Chúng tôi nghĩ mọi chuyện vẫn ổn, bởi vì họ đã không rải bom... Mãi cho tới cuối những năm 1980, khi các thế hệ chúng tôi bắt đầu sinh con, thì chúng tôi mới biết được rằng ảnh hưởng đáng sợ của chiến tranh sẽ theo chúng tôi đến hết cuộc đời".
Hôm nay, Anh Khanh, giống như nhiều người Việt Nam khác, vẫn tin rằng, dioxin còn sót lại lẫn trong đất của ngôi làng đã tàn phá gia đình anh, khiến cho các con anh bị dị tật bẩm sinh, và sau đó cướp đi luôn cả sức khỏe tinh thần của vợ anh nữa. Anh nói, chính quyền địa phương cũng có trợ cấp cho gia đình anh ít tiền, 15 USD/tháng, nhưng anh nói, từng đó chỉ đủ để bù đắp một phần nhỏ chi tiêu cho thức ăn và chăm sóc sức khỏe của một đứa con của anh. "Chúa đang chứng kiến hoàn cảnh của chúng tôi. Đó là điều duy nhất mà chúng tôi có thể hy vọng".
Theo một nghiên cứu của Văn phòng Thống kê chính phủ Mỹ, trong suốt cuộc chiến Việt Nam, Mỹ đã phun khoảng 18 triệu galon chất độc màu da cam. Nhiều thập kỷ sau đó, chất độc có tác động lâu dài này vẫn tiếp tục cướp đi sinh mạng của biết bao người dân Việt Nam. Trong khi Mỹ nhấn mạnh rằng không có đủ bằng chứng về mối liên quan giữa chất làm rụng lá với bất cứ căn bệnh nào tại Việt Nam thì, chính phủ Việt Nam vẫn ước đoán có khoảng 400.000 người Việt Nam đã chết sớm vì các chứng bệnh liên quan tới việc phơi nhiễm chất dioxin và khoảng 500.000 trẻ em bị dị tật bẩm sinh do tiếp xúc với hóa chất rò rỉ ngấm nguồn nước và đất.
Sau khi bình thường hóa quan hệ với Washington năm 1995, mục tiêu bao trùm của Việt Nam là giành được những thỏa thuận thương mại có lợi với Mỹ và tham gia vào các thể chế toàn cầu như Tổ chức Thương mại Thế giới. Khi đã đạt được những mục tiêu này vài năm tước, thì chính phủ bắt đầu yêu cầu mạnh mẽ hơn việc Mỹ phải nhận trách nhiệm. Edmund Malesky, chuyên gia về Việt Nam tại đại học California, San Diego, phân tích: "Việt Nam đã thấy tự tin hơn trong quan hệ với Mỹ, vì thế nước này có thể quay trở lại với những vấn đề của cuộc chiến". Tại cuộc họp thường niên giữa đại diện chính phủ Việt Nam và Mỹ với lực lượng đặc nhiệm về chất độc da cam, tổ chức tháng 9 năm ngoái, Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Nguyễn Xuân Cường đã tuyên bố, những hỗ trợ của Mỹ trong việc làm sạch chất độc da cam "vẫn chưa khiến chúng tôi hài lòng".
Mặc dù chịu áp lực từ phía Việt Nam, nhưng Mỹ vẫn thẳng thừng từ chối công nhận bất cứ trách nhiệm nào đối với những bi kịch như gia đình anh Khanh. Phần nào đó là vì Mỹ không có đủ căn cứ về trách nhiệm pháp lý thuyết phục để bồi thường cho Việt Nam. Những nỗ lực của các nguyên đơn Việt Nam đòi bồi thường trong các tòa án Mỹ liên tục thất bại; luật pháp và những điều ước quốc tế liên quan tới những hậu quả về môi trường và sức khỏe cũng không mạnh mẽ và không có hiệu lực rộng rãi. Và ngay cả khi có những bằng chứng rõ ràng về mối liên hệ giữa sự tiếp xúc dioxin và một loạt các chứng bệnh, thì việc xác minh ảnh hưởng trên từng cá nhân tại Việt Nam lại gần như không thể. Nhưng lý do lớn nhất giải thích tại sao Mỹ từ chối nhận trách nhiệm trước những ảnh hưởng của chất độc da cam tại Việt Nam là lý do "tiền lệ": Làm như vậy, các quan chức Bộ Quốc phòng nhấn mạnh, sẽ khiến Washington phải chấp nhận những khiếu nại từ Hàn Quốc, Philippines, Iraq, và bất cứ người nào bị ảnh hưởng do những hành động của các lực lượng Mỹ.
Mặc dù đa số người Mỹ vẫn nhìn Việt Nam qua con mắt chiến tranh, mãi được khắc ghi qua phim ảnh, sách báo, nhưng người Việt Nam lại đang tiến lên phía trước. Ông Trần Nam Tiến, giảng viên Quan hệ Quốc tế tại Đại học Quốc gia Việt Nam nói: "Quá khứ đã khép lại. Người Việt Nam không còn coi người Mỹ là kẻ thù của cuộc chiến trước nữa". Thực tế, chính Mỹ cũng cần những "người bạn" ở châu Á, nơi mà Mỹ lo ngại đang mất dần ảnh hưởng và hình ảnh xấu đi.
Trong những năm đầu diễn ra cuộc chiến ở Việt Nam, chất độc da cam không phải là công cụ chính trong kho vũ khí của Mỹ, nhưng quân đội miền bắc Việt Nam đã rất thành công khi sử dụng rừng làm nơi ẩn nấp và cất giữ trang thiết bị, nên việc phun thuốc làm rụng lá lại trở nên không thể thiếu trong cuộc chiến của Mỹ. Chính phủ Việt Nam ước tính, Mỹ đã phun trên khoảng 12.000 dặm vuông, tức khoảng 10% tổng diện tích đất của đất nước. Trong khi đó, các khu vực như Đà Nẵng, nơi Mỹ đặt một căn cứ không quân lớn, các lực lượng Mỹ đã dự trữ lượng lớn dioxin, một phần không nhỏ đã rò rỉ ra ngoài các thùng chứa. Nghiên cứu của Hatfield Consultants, công ty phân tích môi trường khá nổi tiếng, đã chứng minh, đất quanh Đà Nẵng ngày nay chứa dioxin cao gấp 365 lần mức tiêu chuẩn chấp nhận được trên thế giới.
Hoàng Thị Thế, một góa phụ 71 tuổi từng là vợ của một sĩ quan Việt Minh, sống ở Đà Nẵng. Bà chăm sóc hai đứa trẻ bị những khuyết tật nghiêm trọng: con trai bà sinh ra với chân tay dị tật, trong khi con gái bị câm, điếc và liệt - những vấn đề mà theo một bác sĩ địa phương nói với bà là do dioxin gây ra. Hai đứa trẻ sống ngày qua ngày lại chỉ nằm trên chiếc giường và nhìn quanh 4 bức tường. Bà nói: "Trước đây, chúng tôi có khá nhiều tiền, và chúng tôi đã đi tới mọi nơi trên đất nước Việt Nam để tìm phương chữa trị cho chúng. Nhưng chúng tôi không thể tìm được phương thuốc nào. Chúng tôi chẳng tìm được gì. Tôi lo âu không biết chuyện gì sẽ xảy đến với các con tôi khi tôi qua đời".
Nhiều năm qua, vẫn chưa có bằng chứng nào được kết luận về mối liên hệ của chất độc da cam với các bệnh tật. Nhưng những thập kỷ gần đây, các nghiên cứu y học, chủ yếu tập trung vào cựu chiến binh Mỹ trong cuộc chiến Việt Nam, đã cho thấy dioxin là nhân tố rủi ro trong một loạt các loại bệnh. Danh sách này bao gồm bệnh Parkinson, ung thư, bệnh thiếu máu cục bộ, bệnh bạch cầu, bệnh ung thư tuyến tiền liệt, và các dị tật bẩm sinh (ở con của những người tiếp xúc với hóa chất này) như nứt đốt sống hay tật vẹo chân. Trong khi đó, có rất nhiều người Việt Nam đang mang trong mình một lượng đủ gây nguy hiểm chất độc hại này. Một phân tích trên 3.000 người Việt Nam, công bố trên Tạp chí Sức khỏe cộng đồng Mỹ, chỉ ra rằng mức độ chất dioxin trong máu của họ cao hơn nhiều so với những người sống ở các khu vực không bị phun chất làm rụng lá.
Tuy nhiên, để xác định chính xác những ai tại Việt Nam đã phơi nhiễm với bao nhiêu chất dioxin là cực kỳ khó khăn. Mặc dù có một số hồ sơ của quân đội Mỹ, nhưng không ai biết chính xác bao nhiêu chất độc da cam được phun trên các khu vực khác nhau trên khắp Việt Nam. Và, như một nghiên cứu toàn diện của Vụ Khảo cứu Quốc hội Mỹ, "cả chính phủ miền bắc và chính phủ miền nam khi đó đều không giữ những thông tin chi tiết về những lần triển khai quân", khiến cho việc chứng minh ai tham gia trận chiến tại các khu vực bị phun càng trở nên khó khăn hơn.
Ngay cả các quan chức Y tế Việt Nam, một nước nghèo mà đa số các bệnh hiểm nghèo đều không được chữa trị, cũng thừa nhận không thể biết chính xác những dị tật nào bắt nguồn từ việc tiếp xúc với dioxin. Bà Phan Thanh Tiên, người làm việc tại Hội nạn nhân chất độc da cam Đà Nẵng, nói: "Chúng tôi có ngân sách hết sức hạn hẹp, và chúng tôi không thể biết chắc ai là nạn nhân chất độc da cam, và ai không phải. Khi một gia đình đưa một đứa con bị dị tật đến với chúng tôi, chúng tôi phải hỏi ’anh sống ở đâu?’ Nếu họ sống ở khu vực bị phun nhiều, hay có nước bị nhiễm độc, chúng tôi mới cho rằng họ là nạn nhân chất độc da cam". Thực tế, có không nhiều các tổ chức tại Việt Nam có đủ kinh phí để làm kiểm tra xác định việc phơi nhiễm dioxin. (Chi phí khoảng 1.000 USD để kiểm tra mức độ phơi nhiễm với dioxin, và GDP bình quân đầu người của Việt Nam chỉ là 2.600 USD).
Ngay cả khi Việt Nam có thể xác định ai bị ảnh hưởng bởi chất độc da cam thì Lầu Năm Góc cũng sẽ lo ngại rằng, thừa nhận trách nhiệm và cấp đền bù cho nạn nhân sẽ tạo ra một tiền lệ nguy hiểm. Chính phủ Mỹ cho rằng họ sẽ phải cung cấp các khoản tương tự cho những người đòi bồi thường những ảnh hưởng về sức khỏe do các hoạt động thời chiến của nước Mỹ - cả trước đây, hiện tại, và sau này - mọi nơi từ bán đảo Triều Tiên cho tới Afghanistan. Vì thế, thời chính quyền Clinton, giai đoạn nước Mỹ nối lại quan hệ với Việt Nam, trợ lý thứ trưởng Quốc phòng Gary Vest, trong chuyến thăm Việt Nam, đã nói rõ với nước chủ nhà rằng, Mỹ không thể nhận trách nhiệm cho những hậu quả từ việc phun chất da cam. Dưới thời chính quyền Bush, cả Bộ trưởng Quốc phòng Donald Rumsfeld và Bộ trưởng Các vấn đề cựu chiến binh (VA) Jim Nicholson đều liên tục chuyển tới Việt Nam thông điệp này.
Tuy nhiên, những lý do mà Mỹ đưa ra có vẻ không nhất quán với nhau. Washington vẫn nhấn mạnh rằng không thể trả đền bù vì không có đủ bằng chứng chỉ ra rằng những căn bệnh mà người Việt Nam mắc phải là do chất độc da cam mà các lực lượng Mỹ đã phun gây ra. Mặt khác, theo luật pháp Mỹ, bất cứ cựu chiến binh Mỹ nào đặt chân tới Việt Nam trong cuộc chiến và bị ảnh hưởng - hay người có con cháu bị ảnh hưởng - và mắc các chứng bệnh trong danh sách dài các bệnh liên quan tới chất da cam đều đủ tiêu chuẩn nhận được sự chăm sóc y tế và các trợ cấp khác của VA.
Mặc dù còn bất đồng về các vấn đề như chất độc da cam, nhưng Việt Nam và Mỹ vẫn đang xây dựng mối quan hệ gần gũi hơn. Đối với người Mỹ, những ai còn nhớ nhà ngoại giao cuối cùng rời mái nhà đại sứ quán tại Sài Gòn năm 1975, thì tình hữu nghị có thể là điều bất ngờ. Nhưng, đối với Việt Nam, đất nước đã chiến đấu chống lại thực dân Pháp những năm 1940 và 1950, rồi sau đó lại bị ảnh hưởng của cuộc chiến biên giới vào cuối những năm 1970, thì xung đột với Mỹ chỉ là một phần trong tiến trình lịch sử dài hơn nhiều. Một nhà ngoại giao Việt Nam làm việc với Mỹ nhiều năm nói: "Tôi không nghĩ hầu hết các vấn đề liên quan tới cuộc chiến thực sự còn ám ảnh Việt Nam nữa. Chúng tôi quan tâm hơn tới những gì đang diễn ra hôm nay". Thương mại hai chiều giữa Mỹ và Việt Nam đã tăng từ mức khoảng 1,2 tỷ USD vào năm 2000 lên 12 tỷ USD vào năm 2007 và hơn 15 tỷ USD vào năm 2008. Hiện tại, Mỹ là đối tác thương mại và thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, và hơn 1 triệu người Mỹ gốc Việt đã đóng góp vào mối quan hệ thân thiện giữa hai nước. Mối quan hệ kinh tế này chỉ mở rộng khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới. Hãng máy tính khổng lồ Intel đã đưa ra quyết định đầu tư đầy táo bạo vào Việt Nam khi xây dựng một nhà máy chế tạo chíp điện tử trị giá 1 tỷ USD tại đây.
Nhìn chung, người Việt Nam có ấn tượng tốt với Mỹ. Theo cuộc điều tra năm 2008 trên 6 nước Đông Á của Hội đồng Chicago về các vấn đề toàn cầu, ảnh hưởng quyền lực mềm của Mỹ tại Việt Nam (các biện pháp ảnh hưởng về kinh tế, chính trị và văn hóa) cao hơn những nước được điều tra khác, bao gồm những đồng minh thân cận của Mỹ như Nhật Bản.
Sự ấm lên trong quan hệ bắt nguồn từ một số yếu tố. Đầu những năm 1990, các cựu chiến binh Mỹ, do thượng nghị sĩ John Kerry và John McCain đứng đầu, đã kêu gọi bình thường hóa về chính trị với Việt Nam và dẫn đầu các chuyến thăm trở lại Việt Nam để cựu chiến binh có thể hòa giải với những người bên kia chiến tuyến cũ của mình. Bởi vì rất nhiều trong hơn 80 triệu dân Việt Nam dưới 30 tuổi, đa số đều muốn hướng tới tương lai và coi cuộc chiến nhiều năm trước là bài học để tiến lên. Ngay cả với những người Việt Nam lớn tuổi, có một thực tế rằng cuộc chiến với Mỹ chỉ là một phần trong hàng thập thập kỷ xung đột - hay hàng thế kỷ chiến tranh, nếu tính cả những cuộc chiến trước đây với Trung Quốc - có nghĩa là người dân không chỉ đơn giản tập trung vào sự thù địch của Mỹ mà còn có quan điểm thực tế hơn về thế giới. Giảng viên Đại học Quốc gia Việt Nam, Trần Nam Tiến, nói: "Trải qua hàng nghìn năm xây dựng và bảo vệ đất nước, sau mỗi cuộc chống xâm lược, người Việt Nam lại vươn lên, Việt Nam đã sẵn sàng ổn định và bình thường hóa quan hệ với các kẻ thù cũ vì lợi ích của cả hai bên".
Tuy nhiên, sẽ thật khó có thể tưởng tượng ra mối quan hệ có lợi cho hai bên sẽ chín muồi, trừ khi Mỹ phải làm gì đó nhiều hơn để giải quyết di sản của chất độc da cam. Di sản đó có thể thấy ở trung tâm chăm sóc trẻ em mắc các dị tật do liên quan tới chất dioxin thuộc Hội Nạn nhân chất độc da cam Đà Nẵng. Trung tâm này có 4 phòng nhỏ và 1 phòng lớn có các bức tường được quét sơn, một vài cái bàn và những chiếc ghế nhựa, và một chiếc quạt. Hàng chục em nhỏ ở trong mỗi phòng, nơi chúng chơi với các đồ chơi, và học những một số nghề như may vá, trong khi bố mẹ chúng phải làm việc tại các khách sạn và các xưởng sản xuất. Các dịch vụ cũng không nhiều - trung tâm không có đủ tài chính, trong số nhiều thứ khác, để thuê một bác sĩ tại chỗ làm các kiểm tra cần thiết cho các em. Bà Nguyễn Thị Hiền, người điều hành trung tâm này nói: "Chúng tôi chỉ có thể nhận những trường hợp nghiêm trọng nhất, vì thế chúng tôi phải từ chối rất nhiều gia đình cũng đang cần sự giúp đỡ". Cơ sở này và một cơ sở khác do Hiệp hội mở ra để chăm sóc chỉ khoảng 100 trong số 1.400 đứa trẻ tại Đà Nẵng mắc các dị tật liên quan tới chất da cam.
Tại Lào, nước bị ném bom nặng nề trong cuộc chiến Việt Nam, Chính phủ Mỹ đã đóng góp những hỗ trợ khiêm tốn để tìm kiếm những chất nổ còn xót lại - những dự án không đi kèm bất cứ tuyên bố nào về trách nhiệm pháp lý đối với những việc làm trước kia của Mỹ. Còn tại Việt Nam, chính quyền George W. Bush đã đi bước đầu tiên hướng tới một giải pháp cho vấn đề chất da cam, cung cấp khoảng 3 triệu USD để dọn sạch chất da cam bị tràn ra bên trong và quanh căn cứ không quân Mỹ tại Việt Nam và hỗ trợ nhân đạo cho những cư dân sống gần căn cứ này.
Bước tiếp theo sẽ là hỗ trợ các nạn nhân nhiễm chất độc da cam trên thực tế. Nhưng chính Washington lại không muốn cung cấp viện trợ, bởi họ đã có "tấm gương" tước đó. Nhật đã phát hiện ra rằng khi giúp Trung Quốc xóa đi những gì còn sót lại từ những vũ khí hóa học thời chiến tranh thế giới thứ 2 tại nước này, việc cung cấp các dịch vụ tại chỗ khiến cho khoản hỗ trợ đó trở nên phức tạp và khiến nền chính trị địa phương bị tha hóa.
Khó khăn nữa là, bất cứ nỗ lực nào của chính quyền Obama trong việc cung cấp hỗ trợ cho các nạn nhân chất độc da cam tại Việt Nam cũng gần như chắc chắn sẽ được các đối thủ của tổng thống sử dụng để khơi lại những suy nghĩ về văn hóa và chính trị thời chiến tranh ở Việt Nam, vốn còn hiện hữu khá phổ biến tại Mỹ. Nhưng ít nhất ông cũng có những "đồng minh" bên phía đảng đối lập, người hiểu được ý nghĩa của việc bù đắp cho nạn nhân Việt Nam. Một trong số đó là John McCain, kiến trúc sư quan trọng trong quá trình hòa giải với Việt Nam. Thượng nghị sĩ bang Arizona đã tuyên bố trong chuyến thăm Việt Nam vào tháng 4/2008 rằng: "Chúng tôi cần phải tiếp tục giải quyết vấn đề chất độc da cam, bao gồm cả việc bồi thường cho nạn nhân và dọn sạch các khu vực bị nhiễm chất độc này".
Mùa thu năm nay, Obama có thể sẽ tới thăm Việt Nam và dự hội nghị thượng đỉnh Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á. Liệu ông có thể mang tới đây niềm hy vọng và sự công bằng cho những con người Việt Nam bất hạnh kia hay không? Liệu sẽ có những lời ngụy biện để trốn tránh hay sẽ là một sự dũng cảm dám "thay đổi" như chính khẩu hiệu khi tranh cử của ông?
(Theo Washingtonmonthly)





![[Chùm ảnh] Toàn cảnh Khu công nghiệp Biên Hòa 1 đang tháo dỡ nhà xưởng, bàn giao mặt bằng](/file/e7837c02876411cd0187645a2551379f/122025/anh_1_resized_20251230152415_20251230165401.jpg?width=500&height=-&type=resize)






