Xây được nhà ở “vùng biển bão tố” đã là một sự diệu kỳ, giữ được nhà vững chãi còn khó khăn, gian khổ bội phần. Với mục tiêu “dù phải hy sinh cũng phải xây nhà giữ đảo”, cán bộ, chiến sĩ Công binh hải quân Đoàn M31 đối mặt với bão tố đại dương với tất cả sức mạnh nội sinh và tình yêu biển đảo.
Xây được nhà ở “vùng biển bão tố” đã là một sự diệu kỳ, giữ được nhà vững chãi còn khó khăn, gian khổ bội phần. Với mục tiêu “dù phải hy sinh cũng phải xây nhà giữ đảo”, cán bộ, chiến sĩ Công binh hải quân Đoàn M31 đối mặt với bão tố đại dương với tất cả sức mạnh nội sinh và tình yêu biển đảo.
Quần đảo Trường Sa được gọi là “quần đảo bão tố”. Hàng năm có khoảng 15-20 cơn bão, lốc đi qua hoặc hình thành tại vùng biển này. Một số đảo được gọi với cái tên khắc nghiệt “lò vôi thế kỷ”. Những người lính công binh xây đảo đã phải ăn, ngủ, ngụp lặn trong nắng gió và sóng bão Trường Sa.
* “Bão tặc, giông khùng”
Bồi hồi nhớ lại những ngày đầu tiên cùng đồng đội chống chọi với nắng gió tại đảo Đá Lớn, đại tá Hoàng Duy Lập, nguyên chỉ huy trưởng Trung đoàn Công binh hải quân 83, cho biết: “Người lính công binh không được phép kêu khó khăn gian khổ, nhưng nói thật, những ngày sống chết ở đảo Đá Lớn đã tôi luyện chúng tôi thành chiến sĩ kiên cường. Trong tim mình như có một luồng thép vô cùng vững chắc, nếu không như thế thì đã bị nắng Trường Sa thiêu rụi rồi”.
Cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 83 xây dựng đảo Đá Lớn những ngày đầu. (ảnh TL) |
Ông kể về khắc sự nghiệt của thời tiết Trường Sa ngày ấy bằng câu chuyện xây loa thành của An Dương Vương, giọng ông kiêu hãnh: “Truyền thuyết kể rằng, vua An Dương Vương muốn xây thành cổ loa đánh giặc, nhưng bao nhiêu năm ròng rã cứ xây đến đâu thành lại đổ đến đó. Mãi đến khi thần kim quy trao cho nỏ thần thành mới xây xong. Vậy mà ngày nay, giữa Trường Sa đầy bão tố, chẳng cần một sức mạnh thần linh nào cả, chỉ có bàn tay và khối óc, nghị lực phi thường và tình yêu biển đảo, những người lính công binh hải quân đã xây nên những “loa thành” vững vàng nơi đầu sóng ngọn gió. Đó là thành tích vẻ vang của lính công binh hải quân chúng ta”.
Những năm thập niên 1980 của thế kỷ trước, khi ấy các đảo lớn, nhỏ thuộc quần đảo Trường Sa còn hoang sơ, chủ yếu là đảo chìm. Khi thủy triều xuống, đảo nhô lên khỏi mặt nước, thủy triều lên đảo chìm sâu dưới biển. Thời tiết vô cùng khắc nghiệt, ban ngày nắng cháy da, đêm phải đắp chăn chống lại sương biển và hơi muối mặn. Để đẩy nhanh tiến độ xây đảo, các chiến sĩ phải chạy đua với thời gian, bất chấp thời tiết nắng mưa, hễ thủy triều xuống là đi vác đá từ tàu vào đảo. Do lâu ngày ngâm trong nước biển mặn nên chân tay của các chiến sĩ lột da bạc thếch, tóc ai cũng cứng và đỏ quạch như rễ tre, da đen nhẻm. Dưới cái nắng 40oC và gió rát mặt, các chiến sĩ chỉ nhận ra nhau bằng hàm răng trắng và ánh mắt. Ngày ấy, vác đá không có tấm bảo hộ kê vai như bây giờ nên chỉ sau 3 ngày là vai áo chiến sĩ rách bươm. Các chiến sĩ phải gấp đôi bì tải đặt lên vai làm lót vác đá cho đỡ đau. Thức ăn của chiến sĩ ngày ấy chủ yếu là đồ hộp và rau muống phơi khô đem ra từ đất liền. Do không có thực phẩm tươi, nhiều chiến sĩ bị đau bóp bụng và đi kiết lỵ. Nhiều đêm giông bão ầm ầm, anh em ngồi bên nhau kể chuyện quê nhà, cây đàn ghi-ta bập bùng, lời bài hát “Đời mình là một khúc quân hành” vang lên trong màn đêm, lẫn vào sóng nước. Sau những phút giây vui tươi ấy là khoảng lặng. Trong sâu thẳm trái tim, các chiến sĩ hướng về đất liền thương mẹ già ở quê, nhớ hương cà bếp lửa, nhớ bàn tay người bạn gái trước lúc lên đường... Những khó khăn khốc liệt của thời tiết, những cơn khát cháy lòng trong miền nhớ tâm tư không làm vơi đi tình yêu biển đảo, mà trái lại, càng khó khăn các chiến sĩ càng vững niềm tin, càng quyết tâm xây đảo.
Một buổi chiều tháng 7-1988, sau gần 6 ngày vật lộn với nắng gió, một “loa thành” nữa gần hoàn thành. Bỗng nhiên, trời nổi cơn giông, sấm chớp ầm ầm, mưa như trút nước. Nhìn bức tường vừa xây xong chưa kịp ráo vữa bị mưa biển xói mòn, các chiến sĩ ôm nhau khóc. Mặc dù huy động tất cả áo mưa che chắn, song cơn giông quái ác ấy đã làm cho “loa thành” sạt lở phân nửa. Mưa tạnh, các chiến sĩ lại khẩn trương bắc dàn giáo trộn hồ xếp từng viên đá vào lòng biển.
Nói về chuyện vác đá rách vai, ông Lập xúc động: “Vết xước của đá trên vai càng nhiều mình càng thấy yêu Tổ quốc. Đá càng nặng, tình Tổ quốc càng sâu, thương đồng đội càng nhiều. Vác đá trên vai là vác trọng trách của Đảng và nhân dân giao phó”.
* Sống chết cùng đảo đá lớn
Ông Hoàng Kiền, nguyên là Thiếu tướng Tư lệnh Binh chủng công binh. Trước khi làm Tư lệnh, ông Kiền từng là chỉ huy trưởng Trung đoàn 83 Công binh thuộc Vùng 3 Hải quân. Với một vị tướng có bề dày công tác vùng biển đảo, ông chẳng lạ gì việc xây dựng đảo Trường Sa. Nhưng khi nói về những ngày cùng đồng đội sống chết ở đảo Đá Lớn, nước mắt ông lại tuôn trào. Bởi: “Đó là những ngày tháng đầy tự hào và đẹp nhất trong đời lính của tôi. Bây giờ nhớ lại, mình chỉ thấy nuối tiếc là không được cống hiến cho Tổ quốc nhiều hơn” - ông Kiền chia sẻ.
Tư lệnh Giáp Văn Cương thăm các chiến sĩ công binh xây đảo Tiên Nữ năm 1988. (ảnh TL) |
Ông Kiền vẫn nhớ như in cái đêm kinh hoàng ấy. Đêm 4-4-1990, ông và mọi người vừa chợp mắt sau một ngày vật lộn với nắng gió, bỗng dưng sấm chớp vang trời, giông gió ầm ầm nổi lên. Quá bất ngờ với cơn “giông khùng” nửa đêm, nhưng ông Kiền vẫn bình tĩnh chỉ huy các chiến sĩ chủ động chống chọi với sóng gió đang chảy ào ạt vào ngôi nhà mới xây chưa có cửa. Để không bị sóng lôi ra biển, các chiến sĩ đã chống sóng bằng cách bám vào vai nhau thành một vòng tròn, nhằm giữ vững ý chí chiến đấu, vừa bảo đảm an toàn, sóng lùa vào cũng không thể hất được “gọng kìm” tay trong tay của các chiến sĩ. Những cơn sóng như mái nhà dâng lên rồi lại “ném vật” các chiến sĩ xuống nền nhà mới xây, có chiến sĩ đã hét lên thật to lấy thêm can đảm. Giữa sống chết cận kề, các anh dặn dò nhau ai sống thì về quê xin gửi lời nhắn giùm vợ con, thăm hỏi mẹ già và người thân ở đất liền. Nếu phải hy sinh để giữ nhà thì cũng sẵn sàng. Xác định như thế nên tất cả mọi người đoàn kết vai kề vai, chân bám chặt vào nền nhà và quyết tâm chiến đấu đến hơi thở cuối cùng.
Theo quy luật tự nhiên, sau cơn mưa trời lại sáng, sau bão giông là biển yên bình. Ông Kiền và những chiến sĩ công binh lại bắt tay xây những công trình mới. Những chiếc áo hải quân bạc màu không chỉ vì dãi nắng dầm mưa theo thời gian, mà còn rách sờn vì vết tỳ của đá. Ông Hoàng Kiền đưa cho chúng tôi xem chiếc áo sờn cũ, vai rách bươm với ánh mắt tự hào: “Trên vai chiếc áo này đã cõng hàng ngàn hòn đá. Ngày ấy, vác đá trên vai xây dựng đảo đồng nghĩa với vác tình yêu Tổ quốc lên vai mình. Vết xước tỳ của đá làm vai áo rách bao nhiêu, tình yêu của người lính công binh sâu nặng bấy nhiêu”.
Mai Thắng - Tuấn Cường