Báo Đồng Nai điện tử
Hotline: 0915.73.44.73 Quảng cáo: 0912174545 - 0786463979
En

Loài tê giác Việt Nam có nguy cơ bị tuyệt chủng rất gần

08:11, 26/11/2008

Những năm 1960, nhiều nhà khoa học cho rằng không còn cá thể tê giác nào còn sống sót ở Việt Nam. Phải đến những năm 1980, sau nhiều đợt khảo sát điều tra của các chuyên gia Viện Điều tra quy hoạch rừng, Cục Kiểm lâm và Chi cục kiểm lâm tỉnh Lâm Đồng đã khẳng định còn một quần thể tê giác ở khu vực Cát Lộc, thuộc Vườn quốc gia Cát Tiên (VQGCT) ngày nay.

Những năm 1960, nhiều nhà khoa học cho rằng không còn cá thể tê giác nào còn sống sót ở Việt Nam. Phải đến những năm 1980, sau nhiều đợt khảo sát điều tra của các chuyên gia Viện Điều tra quy hoạch rừng, Cục Kiểm lâm và Chi cục kiểm lâm tỉnh Lâm Đồng đã khẳng định còn một quần thể tê giác ở khu vực Cát Lộc, thuộc Vườn quốc gia Cát Tiên (VQGCT)  ngày nay.

 

*  Bảo vệ loài tê giác rất cam go!

 

Khu vực bảo tồn tê giác Cát Lộc thuộc 2 huyện Cát Tiên và Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng, có diện tích rộng 27.530 hécta được bảo vệ từ năm 1992 và sát nhập vào VQGCT từ tháng 12-1998. Do lịch sử để lại, trong khu vực Cát Lộc còn nhiều cộng đồng người đồng bào dân tộc bản địa sinh sống trước khi thành lập khu bảo tồn tê giác Cát Lộc như thôn 3, thôn 4, thôn 5 (nay là xã Đồng Nai Thượng), thôn KLút. Sau khi tiếp quản khu Cát Lộc, VQGCT đã tăng cường lực lượng kiểm lâm bảo vệ tại 5 trạm, gồm: Phước Sơn, Bến Cầu, Gia Viễn, Tiên Hoàng, Bù Sa.

 

Tê giác chụp ở Vườn quốc gia Cát Tiên.

Qua các đợt nghiên cứu về số lượng cá thể và vùng phân bố loài tê giác cho thấy quần thể tê giác Việt Nam hiện có khoảng 3 - 5 cá thể, phân bố trên diện tích 5.000 hécta ở khu vực Cát Lộc. Việc kiểm tra số lượng cá thể và diễn biến quần thể tê giác đang được thực hiện định kỳ hàng tháng do Đội giám sát tê giác (RMU) gồm các cán bộ kỹ thuật và kiểm lâm viên của VQGCT thực hiện. Các đợt điều tra tìm kiếm dấu vết của tê giác ở VQGCT rất gian nan và có nhiều khó khăn do địa hình phức tạp, nhiều đồi núi, dốc đứng, thung lũng sâu và  rừng rậm hiểm trở... Khó khăn nhất là phải băng qua các kiểu rừng mây, hoặc rừng tre, lồ ô đổ ngổn ngang hay đi theo các con suối sau các cơn mưa lũ nước chảy xiết. Đội RMU đã thu thập nhiều mẫu vật của tê giác như đo đếm kích thước dấu chân, đúc thạch cao dấu chân, thu mẫu phân, cây thức ăn, và một số mẫu sừng, da, xương tê giác cũng được thu thập từ những người dân được gửi đi nước ngoài phân tích ADN. Phương pháp chụp ảnh tê giác bằng máy bẫy ảnh cũng đã và đang được thực hiện. Cho đến nay, có khoảng hơn 20 kiểu ảnh tê giác Việt Nam đã được ghi nhận, trong đó có 3 kiểu ảnh chụp tê giác vào ban ngày. Qua nhiều hình ảnh cho thấy về kích thước và trọng lượng loài tê giác Việt Nam nhỏ hơn loài tê giác Java.

 

Các kết quả nghiên cứu đã xác định được 68 loài cây thức ăn của tê giác, trong đó có 15 loài cây tê giác rất thích ăn như lá nhíp, bứa, sâm cau, các loài mây... Tuy nhiên, nguồn thức ăn ở khu vực Cát Lộc có chất lượng nghèo nàn, không đảm bảo cho quần thể tê giác phát triển ổn định lâu dài. VQGCT đã và đang trồng thử nghiệm một số loài cây thức ăn cho tê giác, nhưng vì các giống cây không phổ biến, cần phải thu hạt giống hoặc bứng cây con từ rừng để trồng nên giá thành cao.

Trong khu vực Cát Lộc, có một số điểm muối khoáng quan trọng cho loài tê giác thường đến uống. Thiếu những chất khoáng này tê giác có thể chết. Bàu Chim ở Phước Sơn là một trong điểm khoáng quan trọng của loài tê giác, nằm gần các ruộng lúa của người dân địa phương, đã được VQGCT thỏa thuận mua lại của người dân địa phương 12 hécta để xây dựng hàng rào bảo vệ dài khoảng 800m nhằm ngăn chặn người và gia súc xâm nhập; cách ly với các tác động từ bên ngoài ảnh hưởng đến bàu khoáng.  

 

Trước đây toàn bộ diện tích xã Phước Cát 2 (huyện Cát Tiên, tỉnh Lâm Đồng) nằm trong ranh giới Vườn. Năm 2004, VQGCT đã phối hợp với chính quyền địa phương xác định lại ranh giới giữa VQGCT với các cụm dân cư đang sinh sống ở trong và ven rừng. Các diện tích rừng có tính đa dạng sinh học thấp và các vùng đất nông nghiệp đã được tách ra khỏi diện tích Vườn giao về cho địa phương quản lý. Từ năm 2004 đến năm 2008, VQGCT đã xây dựng dự án tái định cư cho người dân các thôn đang sinh sống trong vùng tê giác. Tuy nhiên do kinh phí của Chính phủ có hạn, đến nay chỉ mới di dời được hai thôn KLo - KÍch 33 hộ và Thôn Thung Cọ với 45 hộ ra khỏi Vườn và thu hồi lại 342 hécta diện tích trồng điều của người dân trước đây.

 

* Thách thức và đe dọa

 

Trong khu vực bảo tồn tê giác hiện còn có một số làng bản sinh sống gồm thôn 3 (38 hộ, 198 khẩu), thôn 4 (29 hộ, 144 khẩu). Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn và UBND tỉnh Lâm Đồng đã có chủ trương cho phép thôn 3 và thôn 4 định cư tại chỗ trên diện tích 320 hécta, là diện tích đất người dân địa phương đã định cư và sản xuất  trước đây. Dự án này là giải pháp tạm thời để ổn định dân cư và kết hợp bảo tồn loài tê giác, trong khi Chính phủ chưa chuẩn bị được nguồn kinh phí di dời tái định cư cho các thôn này. Tuy nhiên, tình hình phát triển dân số tự nhiên kể cả cơ học, nhu cầu đất đai để canh tác sản xuất, nhu cầu về sử dụng lâm sản, nhu cầu đất xây dựng các công trình phúc lợi,... chắc chắn sẽ làm chia cắt và thu hẹp vùng sống của loài tê giác. Các nhà khoa học nhận định chất lượng sinh cảnh của tê giác hiện tại cũng không còn đủ tốt cho tê giác như trước đây nữa.

 

Phiên bản dấu chân tê giác tại Cát Tiên.

Đồng Nai Thượng là xã vùng đệm có diện tích 1.800 hécta gồm 295 hộ với 1.292 khẩu, nhưng lại nằm trong vùng lõi của VQGCT và chia đôi khu vực Cát Lộc khiến cho tê giác không thể hoạt động về phía Bắc nơi có sinh cảnh tốt hơn. Hàng năm ở khu vực Cát Lộc, VQGCT đã tiến hành giao khoán 1.012 hécta diện tích rừng cho các cộng đồng bảo vệ với đơn giá 100.000 đồng/hécta/năm (nguồn kinh phí của Dự án 661) và tỉnh Lâm Đồng hỗ trợ kinh phí giao khoán bảo vệ rừng hơn 740 hécta cho 2 thôn 3 và 4 theo chương trình 132 - 134 nhằm tạo việc làm, góp phần cải thiện đời sống cho người dân địa phương. Thế nhưng đời sống của người dân vẫn gặp nhiều khó khăn, còn phụ thuộc vào rừng. Tình trạng lấn chiếm đất rừng, phá rừng làm rẫy, khai thác lâm sản, săn bắn thú rừng, bẫy chim vẫn chưa ngăn chặn triệt để. Một số người dân khác mua bán, sang nhượng đất đai bất hợp pháp kể cả tiêu thụ, vận chuyển lâm sản, động vật rừng trái phép làm cho tình hình quản lý bảo vệ rừng ngày càng phức tạp. Bên cạnh đó, dự án thủy điện Đồng Nai 5 đang dự kiến xây dựng nằm sát khu vực hoạt động của tê giác cũng sẽ ảnh hưởng rất lớn đến sinh cảnh cho tê giác.

Tê giác bị stress không thể sinh sản

Là loài thú sinh sản ít nhất trong các loài thú lớn. Theo các tài liệu nghiên cứu, đời của một tê giác mẹ chỉ có thể có 4 đến 5 lần sinh, mỗi lần sinh một con. Mặc dù VQGCT đang nỗ lực bảo vệ loài tê giác nhưng chưa có dấu vết của tê giác con. Điều này đang gây nhiều vấn đề tranh cãi và lo lắng của các nhà khoa học. Nhiều nhà khoa học cho rằng, có lẽ tê giác Việt Nam bị "stress" do ảnh hưởng các tác động quá lớn của các khu vực dân cư trong vùng như làm đường chia cắt sinh cảnh của tê giác; người dân và kể cả kiểm lâm đi lại trong vùng tê giác; tiếng ồn từ máy cắt cỏ, xe máy, chăn thả gia súc của các khu vực dân cư sống ven rừng... làm tê giác luôn tìm cách trốn tránh con người mà quên đi việc sinh sản!

 

Bảo tồn loài tê giác không chỉ là tài sản của VQGCT mà là tài sản chung của nhân loại. Loài tê giác Việt Nam đang đứng trước nguy cơ bị tuyệt diệt rất gần. Mất những cá thể tê giác này chắc chắn sẽ mất vĩnh viễn một loài tê giác quý hiếm trên trái đất. Việc bảo tồn loài tê giác đang gặp nhiều khó khăn, phức tạp do các áp lực dân cư trong và ngoài VQGCT. Vì vậy, để bảo tồn loài tê giác này không chỉ riêng VQGCT làm được mà cần sự tích cực phối hợp, hỗ trợ của chính quyền địa phương các cấp; cần có chính sách tổng thể và hài hòa của Chính phủ và Bộ NN-PTNT để giải quyết cuộc sống dân cư trong vùng, đồng thời tăng cường sự hợp tác quốc tế trong việc nghiên cứu bảo tồn tê giác nhằm cứu nguy cho những cá thể tê giác cuối cùng ở Việt Nam.                                                                                         

ThS. Phạm Hữu Khánh (Vườn quốc gia Cát Tiên)

 

 

 

 

 

 

Tin xem nhiều