Báo Đồng Nai điện tử
Hotline: 0915.73.44.73 Quảng cáo: 0912174545 - 0786463979
En

Xóm "Trâu" bây giờ...

10:02, 18/02/2008

Gọi là xóm "Trâu" vì nơi đây chỉ có 10 hộ người dân tộc Châu Ro, ngoài việc trồng lúa, họ còn sống thêm bằng nghề nuôi rẽ trâu cho các hộ dân địa phương. Trước kia, xóm "Trâu" gần như nằm biệt lập nơi bìa rừng Mã Đà (thuộc ấp Bào Điền, xã Phú Lý, huyện Vĩnh Cửu). Muốn vào xóm "Trâu", phải băng rừng, lội suối vài ba cây số. Bây giờ, một con đường cấp phối dài hơn 4km, từ ngã ba Phú Lý dẫn vào, đã làm thay đổi ít nhiều sinh hoạt văn hóa, đời sống của người dân nơi đây.

Gọi là xóm "Trâu" vì nơi đây chỉ có 10 hộ người dân tộc Châu Ro, ngoài việc trồng lúa, họ còn sống thêm bằng nghề nuôi rẽ trâu cho các hộ dân địa phương. Trước kia, xóm "Trâu" gần như nằm biệt lập nơi bìa rừng Mã Đà (thuộc ấp Bào Điền, xã Phú Lý, huyện Vĩnh Cửu). Muốn vào xóm "Trâu", phải băng rừng, lội suối vài ba cây số. Bây giờ, một con đường cấp phối dài hơn 4km, từ ngã ba Phú Lý dẫn vào, đã làm thay đổi ít nhiều sinh hoạt văn hóa, đời sống của người dân nơi đây.

 

Một giếng đào lấy nước sạch cho dân xóm "Trâu".

* Qua cơn bĩ cực

 

Năm 1992, do xây dựng công trình thủy điện Trị An, 10 hộ người dân tộc Châu Ro này đã từ xã Phú Túc (huyện Định Quán) di dời về đây. Những năm đầu, cuộc sống nơi vùng đất mới chưa thích nghi với họ. Mùa mưa, từ nguồn nước suối Bào Điền uốn khúc băng qua xóm, họ tự khai khẩn đất để trồng lúa. Đến mùa khô, suối cạn nước, đồng khô cỏ cháy, trên 50 nhân khẩu phải tỏa đi nhiều nơi để  làm thuê kiếm sống. Có người không tìm được việc làm, phải đi bộ băng rừng hàng chục cây số sang vùng giáp ranh tỉnh Bình Phước làm thuê. Anh Điểu Nhưng có 5 con, trong đó 2 con trai lớn 13 - 15 tuổi, mùa khô nào cũng theo anh sang Bình Phước nhổ khoai mì thuê. Anh nhớ lại: "Lúc mới về đây ở, tụi tui khổ lắm. Ruộng mới, làm không được bao nhiêu lúa, vợ chồng con cái phải đi làm mướn thêm để sống qua bữa. Hai thằng con trai lớn, mùa khô nào cũng theo tui làm mướn kiếm tiền".

Sinh hoạt của người dân xóm "Trâu" thuở đó khá vất vả: điện không, nước sạch không... Mỗi hộ hàng tháng được xã Phú Lý cấp cho vài lít dầu hôi để thắp đèn, nước uống thì nhờ nước mưa, hết nước mưa thì uống nước suối. Nhà cửa thì che chắn tạm bợ, mái tranh vách đất. Sức kéo phải mượn trâu hay thuê ở tận Phú Túc. Anh Điểu Phượng kể lại: "Hồi đó, muốn ra chợ Phú Lý phải đi bộ đường rừng 2 - 3 cây số! Mà có tiền đâu để đi chợ, chỉ mùa gặt lúa mới có tiền. Nhưng chỉ được 3 - 4 tháng thì hết tiền, hết lúa, phải mượn tiền, mượn gạo của mấy người ở ngoài xã". Sau gần 5 - 6 năm người dân xóm "Trâu" chỉ sống thụ động nhờ trời và dựa vào thiên nhiên, dần dần họ đã biết tự lực. Họ đắp đập ngăn suối Bào Điền giữ nước để tưới tiêu trong mùa khô, trồng thêm hoa màu. Thấy vậy, nhiều hộ người Kinh thuê họ "nuôi giùm" trâu, nhưng không trả bằng tiền mà bằng... trâu nghé. Và, xóm "Trâu" mang tên từ đó.

 Theo hợp đồng miệng giữa hai bên thì cơm nước, công chăn thả do người nuôi chịu. Nếu nuôi một bầy trâu từ 7 - 8 con, trong thời gian 2 năm, người chăn sẽ nhận được một trâu nghé từ chủ. Gần 7 năm (tính đến thời điềm 2005), tưởng nhờ có thêm công việc nuôi rẽ trâu, ít ra sẽ có vài hộ dân xóm "Trâu" có trâu đàn, nhưng thực ra không hộ nào có trâu của riêng mình. Anh Điểu Phượng giải thích: "Các hộ ở xóm "Trâu" chủ yếu sống dựa vào việc trồng lúa nước, tới mùa vụ thường thiếu vốn, đành bán trâu để xoay xở. Hết trâu thì vay tiền của mấy người ở ngoài xã. Nếu vay không được tiền thì "năn nỉ" mua thiếu phân bón, lúa giống. Do các hộ ở đây không có "sổ đỏ" nên không vay được tiền ngân hàng. Đất ruộng ở đây giờ khá tốt, nhưng do thiếu nước nên mỗi năm chỉ làm được một vụ". Qua tìm hiểu, chúng tôi được biết hầu hết các hộ dân xóm "Trâu" đều là con nợ trong diện ăn trước trả sau.

Vào một sáng chủ nhật, chúng tôi trở lại xóm "Trâu" và gặp anh Điểu Minh đang nằm đong đưa trên võng, dưới gốc cây me đầu xóm. Tay cầm cái đài áp sát vào tai, anh đang nghe chương trình thời sự của Đài Phát thanh - truyền hình Đồng Nai. Gặp chúng tôi, anh Minh mừng rỡ. Chúng tôi rút thuốc mời anh hút, anh từ chối: "Nghe lời Nhà nước, tui bỏ hút thuốc rồi!". Thấy chúng tôi nhìn chăm chú mấy chiếc máy xới đang cày xới ngoài đồng, anh Minh tỏ ra phấn khởi: "Bây giờ ruộng đồng ở xóm "Trâu" tụi tui đều thuê máy cày xới hay gặt lúa của mấy người dân ngoài xã, không... xài trâu nữa!".  Người dân xóm "Trâu" giờ đây không còn thời gian để nuôi trâu rẽ nữa. Tiếng nghé ngọ của trâu đã thay bằng tiếng bình bịch của máy cày, máy xới. Họ luôn tất bật ngoài đồng, ngoài nương. Những bãi "trâu dầm" đã nhường cho cây lúa hay hoa màu. Vài hộ đã có cái ti vi sử dụng bằng điện bình ắc-qui hay sắm xe máy. Chính quyền địa phương và một số "mạnh thường quân" đã cho mỗi hộ dân xóm "Trâu" 15 tấm tôn lợp lại nhà và đào một cái giếng lấy nước sạch, hỗ trợ vốn cho họ làm ăn. Mỗi dịp lễ lạc, chính quyền địa phương và nhiều đoàn thể thường vô thăm hỏi, tặng quà...

 

* Đời sống văn hóa: được và mất

 

Rất tự nhiên, chị Điểu Hương nói vanh vách cho chúng tôi nghe về... các biện pháp "kế hoạch hóa gia đình". Chị tỏ ra tâm đắc khi mình là người dân tộc am hiểu về vấn đề này. Chị nói: "Xóm "Trâu" này tuy chỉ có 10 hộ, nhưng hơn phân nửa số hộ đều có 4 - 5 đứa con trở lên. Tui thấy cha mẹ tụi nó chạy ăn còn hụt hơi, nói gì tới chuyện học hành. Ít con mà lo đầy đủ vẫn tốt hơn chứ".

Gần 16 năm trôi qua, đến nay, xóm "Trâu" đã có thêm 5-6 cặp thanh niên lập gia đình, đa số là các thành viên cùng xóm. "Miễn hai bên gia đình đàng trai và gái đồng ý là họ sống với nhau sau khi làm bữa tiệc nhỏ đãi bà con trong xóm. Chưa có hộ nào tổ chức đám cưới như người Nam (họ gọi người Kinh là người Nam)!". Chị Điểu Hương nói thêm như vậy.

Anh Điểu Phượng nhận xét: "Tình hình đời sống ở xóm "Trâu" khá tốt, thỉnh thoảng mới có chuyện vợ chồng cãi nhau do nhậu hay ghen bậy bạ!". Chúng tôi hỏi: "Nhậu rượu gì? Chắc bà con ở đây có nấu rượu cần?". Anh Phượng cười "ruồi": "Hì... hì... rượu đế uống đã hơn! Rượu này có bán sẵn ngoài chợ Phú Lý, xách xe mua cho lẹ. Bây giờ cả xóm không còn ai biết làm rượu cần hết. Đến như cái cồng, cái chiêng của ông bà để lại còn mất tiêu, có đâu mà tập đánh". Chợt nghe tiếng hát của một thanh niên nào đó ở trong xóm "vọng" lại lời bài hát "Tình thôi xót xa", anh Phượng giải thích: "Từ ngày làm con đường nối liền từ xã vô đây, nếu có tiền là tụi nhỏ "dông"ra ngoài xã Phú Lý uống cà phê, nghe nhạc hay nhậu. Còn vào thời gian gặt lúa xong, tối đến, nếu ở xã có tổ chức văn nghệ hay có đoàn hát nào về diễn thì cả xóm đi coi hết trơn. Nghe được bài hát nào hay là sáng mai ra đồng nghe tụi nó hát "rân" trời!".

Giờ đây, nếu ghé thăm xóm "Trâu", người ta sẽ chẳng phải băng rừng lội suối và cũng chẳng thấy trâu. Chỉ thấy những mái nhà tôn thay cho tranh lá; những cánh rừng trồng bát ngát; những đồng lúa xanh rì trải đến bìa rừng...

Lê Hoàng

 

Tin xem nhiều