
Vợ hoặc chồng có quyền đơn phương xin ly hôn nếu bị bạo lực gia đình. Tuy nhiên, pháp luật không cho phép người chồng đơn phương ly hôn khi vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi.
Vợ hoặc chồng có quyền đơn phương xin ly hôn nếu bị bạo lực gia đình. Tuy nhiên, pháp luật không cho phép người chồng đơn phương ly hôn khi vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi.
![]() |
| Luật sư Ngô Văn Định, Phó giám đốc Trung tâm Tư vấn pháp luật tỉnh (Hội Luật gia tỉnh) tư vấn pháp luật về hôn nhân - gia đình cho một người dân. Ảnh: Đ.Phú |
Luật sư Ngô Văn Định, Phó giám đốc Trung tâm Tư vấn pháp luật tỉnh (Hội Luật gia tỉnh) cho hay, pháp luật chỉ hạn chế quyền đơn phương ly hôn của người chồng nhằm bảo vệ quyền lợi cho phụ nữ. Còn đối với người vợ, dù đang có thai hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi vẫn được quyền đơn phương xin ly hôn khi bị chồng bạo lực gia đình.
* Bảo vệ phụ nữ khi bị bạo lực gia đình
3 năm trước, khi con chung của vợ chồng chị P.T.M. và anh T.V.P. (ngụ P.Long Bình Tân, TP.Biên Hòa) mới 2 tháng tuổi, anh P. đã đơn phương xin ly hôn vợ vì lý do vợ chồng thường xuyên gây gổ, đánh chửi nhau. Tuy nhiên, yêu cầu đơn phương ly hôn của anh P. không được tòa án chấp nhận vì chị M. đang nuôi con nhỏ dưới 12 tháng tuổi.
Chị M. kể, thời gian sau đó, chị thường xuyên bị chồng đánh đập nên đã chủ động xin ly hôn, nhưng lúc này chồng của chị lại không đồng ý. Chị M. thắc mắc không biết pháp luật có cho phép chị đơn phương ly hôn với chồng hay không?
Trao đổi về thắc mắc của chị M., luật sư Ngô Văn Định cho biết, Luật Hôn nhân - gia đình năm 2014 không cho phép chồng yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi. Tuy vậy, luật không cấm vợ đang có thai hoặc nuôi con dưới 12 tháng tuổi đơn phương ly hôn. Do đó, chị M. có quyền đơn phương ly hôn chồng. Lý do đơn phương xin ly hôn của chị nếu có thêm căn cứ người chồng có hành vi bạo lực gia đình thì tòa án sẽ thụ lý giải quyết.
“Bạo lực gia đình là hành vi cố ý của thành viên gia đình gây tổn hại hoặc có khả năng gây tổn hại về thể chất, tinh thần, kinh tế đối với thành viên khác trong gia đình. Các hành vi bạo lực gia đình như: hành hạ, ngược đãi, đánh đập hoặc hành vi cố ý khác xâm hại đến sức khỏe, tính mạng. Lăng mạ hoặc hành vi cố ý khác xúc phạm danh dự, nhân phẩm. Cô lập, xua đuổi hoặc gây áp lực thường xuyên về tâm lý gây hậu quả nghiêm trọng. Cưỡng ép quan hệ tình dục. Có hành vi trái pháp luật buộc thành viên gia đình ra khỏi chỗ ở…” - luật sư Định hướng dẫn.
* Quy định pháp luật còn bất cập
Theo quy định, chồng không có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi. Theo các chuyên gia pháp lý, luật quy định như vậy là nhân văn, bảo vệ quyền lợi cho phụ nữ và trẻ em dưới 12 tháng tuổi trong quan hệ hôn nhân - gia đình một cách tốt nhất.
Tuy nhiên, trong thực tế vẫn có trường hợp người vợ mang thai, nuôi con dưới 12 tháng tuổi mà bào thai, đứa trẻ đó không phải là máu mủ của người chồng thì người chồng vẫn không được quyền đơn phương ly hôn. Điều này vô tình trói buộc người chồng với cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc, nặng nề, dễ phát sinh bạo lực gia đình. Mà theo quy định pháp luật hiện hành, hành vi bạo lực gia đình sẽ bị xử phạt hành chính hoặc hình sự (tùy theo mức độ).
|
Luật sư Ngô Văn Định, Phó giám đốc Trung tâm Tư vấn pháp luật tỉnh (Hội Luật gia tỉnh) chia sẻ, hậu quả của mỗi hành vi bạo lực gia đình trực tiếp hay gián tiếp đều tác động và ảnh hưởng xấu đến hạnh phúc gia đình và trật tự xã hội. Phòng, chống bạo lực gia đình không phải là việc của một cá nhân hay một tổ chức độc lập mà là công việc chung, cần có sự kết hợp đồng bộ, sự phối hợp của các cơ quan hữu quan và cả hệ thống chính trị, cả xã hội vào cuộc mới mang lại hiệu quả thiết thực nhằm xây dựng xã hội văn minh tiến bộ, gia đình hạnh phúc. |
Do đó, theo các chuyên gia pháp lý, Luật Hôn nhân - gia đình năm 2014 cần phải sớm sửa đổi, bổ sung quy định này theo hướng, người chồng có quyền đơn phương yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi khi bào thai đó hoặc đứa trẻ đó không phải là con chung của vợ chồng. Điều này vừa phù hợp với đạo lý, ngăn chặn nguy cơ bạo lực gia đình, nạn ngoại tình có con riêng trước và sau khi kết hôn, bảo vệ danh dự, nhân phẩm của đôi bên.
Một quy định hiện khó khả thi liên quan đến bạo lực gia đình là quy định hành vi “cưỡng ép quan hệ tình dục” cũng được coi là hành vi bạo lực gia đình (theo Điểm đ, Khoản 1, Điều 2 Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007).
Theo một số luật sư thuộc Hội Luật gia tỉnh, quy định này được đánh giá là tiến bộ, nhưng khó khả thi vì rất khó để xác định hành vi cưỡng ép quan hệ tình dục giữa 2 vợ chồng. Do đó, quy định này cần được hướng dẫn cụ thể, rõ ràng thì khi thực hiện mới không bị vướng và tránh bị một bên lợi dụng để viện cớ ly hôn.
Đáng chú ý, ngay trong Dự thảo Nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình (đang lấy ý kiến góp ý) nhằm thay thế Nghị định 167/2013/NĐ-CP ngày 12-11-2013 cũng có điểm liên quan đến hành vi kích động tình dục hoặc lạm dụng thân thể cần phải điều chỉnh. Cụ thể, quy định người có hành vi kích động tình dục hoặc lạm dụng thân thể đối với thành viên gia đình bị phạt tiền từ 20-30 triệu đồng (Điểm b, Khoản 3, Điều 55 Dự thảo) nên bổ sung thêm cụm từ trừ trường hợp vợ, chồng…
“Vì Luật Hôn nhân - gia đình năm 2014 quy định, thành viên gia đình bao gồm vợ, chồng; cha mẹ đẻ, cha mẹ nuôi, cha dượng, mẹ kế, cha mẹ vợ, cha mẹ chồng; con đẻ, con nuôi, con riêng của vợ hoặc chồng, con dâu, con rể; anh, chị, em cùng cha mẹ, anh, chị, em cùng cha khác mẹ, anh, chị, em cùng mẹ khác cha, anh rể, em rể, chị dâu, em dâu của người cùng cha mẹ hoặc cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha; ông bà nội, ông bà ngoại; cháu nội, cháu ngoại; cô, dì, chú, cậu, bác ruột và cháu ruột. Nếu xử phạt vợ, chồng có hành vi này với nhau thì quả là bất hợp lý” - luật sư Ngô Văn Định nói.
Đoàn Phú













