Luật Tiếp cận thông tin năm 2016 (có hiệu lực thi hành từ ngày 1-7-2018, gồm có 5 chương, 37 điều) quy định chủ thể thực hiện quyền tiếp cận thông tin là công dân, chủ thể cung cấp thông tin là cơ quan nhà nước.
Luật Tiếp cận thông tin năm 2016 (có hiệu lực thi hành từ ngày 1-7-2018, gồm có 5 chương, 37 điều) quy định chủ thể thực hiện quyền tiếp cận thông tin là công dân, chủ thể cung cấp thông tin là cơ quan nhà nước. Theo quy định của Luật Tiếp cận thông tin, cơ quan nhà nước có trách nhiệm cung cấp thông tin nhưng cũng có những loại thông tin công dân không được phép tiếp cận.
Theo các luật gia Vòng Khiềng (bìa trái) và Nguyễn Đức (giữa), quyền tiếp cận thông tin của công dân càng cụ thể thì quyền dân chủ của công dân được phát huy và tôn trọng. |
Giám đốc Sở Tư pháp Viên Hồng Tiến nhấn mạnh đối với trường hợp thông tin công dân được tiếp cận thì cơ quan nhà nước cung cấp thông tin. Đối với UBND cấp xã, bên cạnh cung cấp thông tin do mình tạo ra, còn cung cấp thông tin do mình nhận được.
* Không phải thông tin nào cũng công khai
Luật Tiếp cận thông tin quy định công dân được tiếp cận thông tin bằng 2 cách thức: Tự do tiếp cận thông tin được cơ quan nhà nước công khai và yêu cầu cơ quan nhà nước cung cấp thông tin. Thông tin phải được công khai gồm: thông tin mà pháp luật quy định phải được công khai; thủ tục hành chính và quy trình giải quyết công việc của cơ quan nhà nước...
Về phạm vi thông tin được tiếp cận, luật gia Vòng Khiềng cho biết Luật Tiếp cận thông tin quy định công dân được tiếp cận tất cả thông tin của cơ quan nhà nước theo quy định của luật (trừ thông tin công dân không được tiếp cận và thông tin công dân được tiếp cận có điều kiện). Căn cứ vào điều kiện thực tế, cơ quan nhà nước chủ động công khai thông tin khác do mình tạo ra hoặc nắm giữ. |
Ông Viên Hồng Tiến cho biết, bên cạnh quy định quyền tiếp cận thông tin của công dân, Luật Tiếp cận thông tin quy định rất rõ các hành vi bị cấm, như: cố ý cung cấp thông tin sai lệch, không đầy đủ; trì hoãn việc cung cấp thông tin; hủy hoại thông tin; làm giả thông tin.
Các hành vi cung cấp hoặc sử dụng thông tin để chống lại Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, phá hoại chính sách đoàn kết, kích động bạo lực; cung cấp hoặc sử dụng thông tin nhằm xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín, gây kỳ thị về giới, gây thiệt hại về tài sản của cá nhân, cơ quan, tổ chức; cản trở, đe dọa, trù dập người yêu cầu hay người cung cấp thông tin... đều bị nghiêm cấm.
Luật gia Vòng Khiềng, Giám đốc Trung tâm tư vấn pháp luật Hội Luật gia tỉnh, cho hay luật cũng quy định các loại thông tin công dân không được tiếp cận, gồm: thông tin thuộc bí mật Nhà nước (những thông tin có nội dung quan trọng thuộc các lĩnh vực: chính trị, quốc phòng - an ninh quốc gia, đối ngoại, kinh tế, khoa học - công nghệ và các lĩnh vực khác theo quy định của luật); thông tin nếu để tiếp cận sẽ gây nguy hại đến lợi ích của Nhà nước, ảnh hưởng xấu đến quốc phòng - an ninh quốc gia, quan hệ quốc tế, trật tự an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng, gây nguy hại đến tính mạng, cuộc sống hoặc tài sản của người khác; thông tin thuộc bí mật công tác; thông tin về các cuộc họp nội bộ của cơ quan; các tài liệu do cơ quan soạn thảo cho công việc nội bộ…
Theo luật gia Vòng Khiềng, những thông tin này được quy định là thông tin mật và chỉ một số ít đối tượng được tiếp cận với tư cách là người thi hành công vụ chứ không phải tư cách công dân. Việc tiếp cận, sử dụng và quản lý tin mật được quy định trong các văn bản pháp luật khác theo quy trình, thủ tục rất chặt chẽ.
* Có 3 cách thức cung cấp thông tin
Ông Viên Hồng Tiến cho biết theo quy định của Luật Tiếp cận thông tin, tùy trường hợp cụ thể mà tuân thủ trình tự, thủ tục yêu cầu cung cấp thông tin theo các trường hợp sau và căn cứ vào những quy định này để cơ quan nhà nước thực hiện trách nhiệm cung cấp thông tin cho công dân:
- Trường hợp cung cấp thông tin trực tiếp tại trụ sở cơ quan cung cấp thông tin: Đối với thông tin đơn giản, có sẵn có thể cung cấp ngay. Đối với thông tin phức tạp, cần tập hợp từ các bộ phận của cơ quan đó hoặc phải có ý kiến của cơ quan khác thì chậm nhất là 10 ngày làm việc. Trường hợp cần gia hạn tìm kiếm thì tối đa không quá 10 ngày làm việc. Người yêu cầu cung cấp thông tin được trực tiếp đọc, xem, nghe, ghi chép, sao chép, chụp tài liệu…
- Trường hợp cung cấp thông tin qua mạng điện tử: đối với thông tin đơn giản, có sẵn thì chậm nhất là 3 ngày làm việc; đối với thông tin phức tạp, cần tập hợp từ các bộ phận của cơ quan đó hoặc phải có ý kiến của cơ quan khác thì chậm nhất là 15 ngày làm việc. Trường hợp cần gia hạn thì tối đa không quá 15 ngày làm việc. Việc cung cấp thông tin qua mạng điện tử được thực hiện bằng các cách thức, như: gửi tập tin đính kèm thư điện tử; cung cấp mã truy cập một lần (chỉ dẫn địa chỉ truy cập để tải thông tin).
- Trường hợp cung cấp thông tin thông qua dịch vụ bưu chính, fax: đối với thông tin đơn giản, có sẵn thì chậm nhất là 5 ngày làm việc. Đối với thông tin phức tạp, cần tập hợp từ các bộ phận của cơ quan đó hoặc phải có ý kiến của cơ quan khác thì chậm nhất là 15 ngày làm việc. Trường hợp cần gia hạn thì tối đa không quá 15 ngày làm việc.
Đoàn Phú