
Trước những nguy cơ tiềm ẩn các bệnh lây truyền qua thực phẩm, đặc biệt trong thức ăn đường phố (TĂĐP), vừa qua, Bộ Y tế đã tiến hành kiểm tra TĂĐP tại ba thành phố lớn trong cả nước là Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh và Đà Nẵng; đồng thời cũng sẽ áp dụng việc cấp giấy chứng nhận điều kiện an toàn - vệ sinh thực phẩm (AT-VSTP) cho các cơ sở kinh doanh TĂĐP. Ở Đồng Nai, vấn đề quản lý TĂĐP như thế nào?
Trước những nguy cơ tiềm ẩn các bệnh lây truyền qua thực phẩm, đặc biệt trong thức ăn đường phố (TĂĐP), vừa qua, Bộ Y tế đã tiến hành kiểm tra TĂĐP tại ba thành phố lớn trong cả nước là Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh và Đà Nẵng; đồng thời cũng sẽ áp dụng việc cấp giấy chứng nhận điều kiện an toàn - vệ sinh thực phẩm (AT-VSTP) cho các cơ sở kinh doanh TĂĐP. Ở Đồng Nai, vấn đề quản lý TĂĐP như thế nào?
* Chất lượng và vệ sinh còn bỏ ngỏ
Thức ăn đường phố đã góp phần không nhỏ trong việc đáp ứng nhu cầu ăn nhanh, đa dạng cho rất nhiều người. Với nhịp sống công nghiệp, người ta thường không có đủ thời gian để nấu ăn ngày ba bữa, mà thay vào đó là ăn các thức ăn nhanh ở hàng quán, bán rong. Phải nói rằng không đâu các món ăn lại đa dạng và giá cả bình dân như TĂĐP. Tuy nhiên, chất lượng và vệ sinh của TĂĐP đã thật sự khiến người ta lo lắng.
Điều dễ nhận thấy ở những quán cóc, quán ăn tạm bợ là thường gần đường lộ, nơi xe cộ và người qua lại đông. Nhất là trong những ngày nắng nóng, bụi và khói xe bốc lên mù mịt, trong khi những sọt bún, những rổ rau và thức ăn thường để phơi trần, không đậy hoặc để trong tủ kính để tránh bụi và ruồi muỗi. Thậm chí có những gánh hàng rong đặt gần cống rãnh nhưng người ăn vẫn cứ thoải mái coi như không có gì xảy ra. Qua tìm hiểu chúng tôi thấy những người bán quán cóc thường lấn chiếm vỉa hè, lề đường nên không có vòi nước để sử dụng mà chỉ xách một vài xô và dùng cho tất cả các khâu: đổ thêm vào nồi nước lèo, rửa rau và làm nhiều việc khác, nên chén dĩa là những thứ được rửa sơ sài nhất; những xô, thau thùng, xoong nồi cũng cùng chung số phận.
Theo thống kê của Trung tâm y tế dự phòng Đồng Nai trong năm 2000, trên địa bàn chỉ có khoảng 3.000 cơ sở TĂĐP có địa chỉ cố định và khoảng 1.500 cơ sở không có địa chỉ cố định cũng như kinh doanh "chui". Nhưng trong 6 tháng đầu năm 2005, ngành chức năng đã thống kê được 13.983 cơ sở, trong đó có cả kinh doanh có phép lẫn kinh doanh chui. Qua kiểm tra AT-VSTP tại 9.512/13.983 cơ sở là những điểm kinh doanh TĂĐP có địa chỉ cố định và giấy phép kinh doanh thì có đến 41,14% cơ sở không đạt tiêu chuẩn AT-VSTP. Cũng trong một đợt kiểm nghiệm mẫu TĂĐP loại bán rong thì có đến 90% số mẫu bị nhiễm vi sinh do điều kiện môi trường và khâu chế biến kém vệ sinh. Cũng thế, những người tham gia dịch vụ kinh doanh TĂĐP đa số là người nghèo, phụ nữ không có việc làm, trong đó có cả lao động trẻ em.
Trung tâm cũng đã tiến hành khảo sát thực trạng TĂĐP trên địa bàn tỉnh trong 6 tháng đầu năm và đã có nhận định sau: Hầu hết các điểm bán TĂĐP thiếu cơ sở hạ tầng và các dịch vụ môi trường như không có nhiều nước sạch, điều kiện xử lý rác và chất thải kém; thiếu tủ lạnh cũng như các thiết bị bảo quản thực phẩm; dịch vụ này khó kiểm soát do tính đa dạng, thời vụ, tạm thời và ít điểm có đăng ký kinh doanh; người trực tiếp chế biến hầu hết có trình độ văn hóa thấp, thiếu kiến thức về thực hành VS-ATTP, hạn chế về vệ sinh cá nhân; thức ăn đường phố dễ bị ô nhiễm, gây nguy cơ ngộ độc thực phẩm và các bệnh lây truyền qua đường thực phẩm. Điều đáng lo ngại hiện nay là các loại TĂĐP - nhất là hàng rong đang được chở, gánh, bưng bê đi bán khắp nơi dưới trời mưa nắng và khói bụi, không được bảo quản hay che đậy cẩn thận. Thế nhưng những loại hàng rong này lại được khá nhiều người lao động có thu nhập thấp "ủng hộ", vì những người này ăn uống chủ yếu là để no bụng và giá lại bình dân. Loại thực phẩm này tuy không gây ra ngộ độc cấp nhưng trở thành nơi "dung dưỡng" cho nhiều loại bệnh...
* Chính quyền cơ sở phải cùng vào cuộc
Nguy cơ ngộ độc thực phẩm và các bệnh lây truyền qua đường thực phẩm hiện nay đã thực sự báo động đỏ. Trước tình hình đó, để cải thiện tình trạng mất an toàn trong quản lý thực phẩm, vừa qua Bộ Y tế đã tiến hành kiểm tra thực thi việc quản lý AT-VSTP tại ba thành phố lớn, đó là: Hà Nội, TP.HCM và Đà Nẵng; đồng thời, Cục AT-VSTP sẽ tiến hành việc cấp giấy chứng nhận cho các cơ sở kinh doanh TĂĐP. Còn ở Đồng Nai, vấn đề quản lý TĂĐP ra sao?
Trao đổi với chúng tôi về vấn đề này, ông Trần Minh Hòa, Phó khoa AT-VSTP (Trung tâm y tế dự phòng Đồng Nai) cho biết: "Hiện nay trọng tâm công tác là vấn đề quản lý TĂĐP. Cái khó của việc quản lý hiện nay là thiếu nhân lực. Theo quy định cứ mỗi 20.000 dân phải có một thanh tra viên, nhưng ở địa bàn Đồng Nai hiện nay tính ra gần 40.000 dân mới có một thanh tra viên. Vì thế, thực hiện việc quản lý là rất khó khăn. Một điểm mới hiện nay là Cục quản lý AT-VSTP sẽ áp dụng việc cấp giấy chứng nhận cho các cơ sở kinh doanh TĂĐP, đồng thời giao trách nhiệm cho chính quyền địa phương trực tiếp kiểm tra. Hy vọng, những vấn đề liên quan đến việc mất an toàn trong thực phẩm sẽ được cải thiện". Được biết, hiện nay Đồng Nai đang chuẩn bị cho việc kiểm tra và cấp giấy chứng nhận cho tất cả các cơ sở kinh doanh TĂĐP trên địa bàn. Mỗi loại giấy chứng nhận có tính chất khác nhau và mỗi lẫn kiểm tra đều xác định rõ mức độ bảo đảm điều kiện AT-VSTP của cơ sở đó mới tiến hành cấp một trong những giấy chứng nhận sau: Giấy chứng nhận màu đỏ là cơ sở đó có đủ điều kiện AT-VSTP tốt; giấy màu xanh là cơ sở đó có điều kiện trung bình và giấy màu trắng là không đạt điều kiện AT-VSTP. Nếu cơ sở nào nhận được giấy màu trắng sẽ phải ngừng kinh doanh để chấn chỉnh, khắc phục. Sau 1 tháng, đoàn kiểm tra lại nếu đạt yêu cầu mới cho phép kinh doanh trở lại. Tất nhiên trách nhiệm kiểm tra việc điều hành quản lý ở địa phương sẽ do liên ngành chức năng giám sát. Điều này có nghĩa là buộc chính quyền địa phương cấp cơ sở phải cùng vào cuộc với một tinh thần trách nhiệm để góp phần hạn chế đến mức thấp nhất tình trạng ngộ độc cũng như nguy cơ tiềm ẩn các bệnh lây nhiễm qua đường thực phẩm. Vì hơn bao giờ hết, chỉ có chính quyền địa phương cấp cơ sở mới là người nắm rõ nhất những hoạt động đang diễn ra trên địa bàn mình.
Việc giao trách nhiệm quản lý AT-VSTP cho địa phương cơ sở, theo chúng tôi là một quyết định đúng đắn. Song, khi đã có những quy định, phân cấp rõ ràng, cụ thể, một mặt ngành chức năng cần tuyên truyền, giáo dục để người dân cùng tham gia giám sát việc cơ sở thực hiện AT-VSTP, tránh tình trạng tiêu cực, châm chước trong quá trình kiểm tra và cấp giấy. Mặt khác, cũng cần tăng cường giám sát, kiểm tra lại đối với những cơ sở đã được cấp giấy đỏ, giấy xanh để tránh tình trạng dựa vào giấy phép đã có rồi lơ là trong thực hiện AT-VSTP.
Phương Liễu















