Báo Đồng Nai điện tử
En

Trường hợp nào được xóa án tích?

Đoàn Phú
08:35, 03/07/2023

Theo quy định của Bộ luật Hình sự sửa đổi năm 2017 (gọi tắt BLHS), người bị kết án về hành vi phạm tội theo quy định của BLHS, sau khi chấp hành xong hình phạt tù và trải qua thời gian thử thách thì được xóa án tích.

Người dân xã Núi Tượng (H.Tân Phú) tham gia buổi tuyên truyền pháp luật, trong đó có pháp luật về hình sự do Đoàn Luật sư tỉnh tổ chức. Ảnh minh họa: Đoàn Phú
Người dân xã Núi Tượng (H.Tân Phú) tham gia buổi tuyên truyền pháp luật, trong đó có pháp luật về hình sự do Đoàn Luật sư tỉnh tổ chức. Ảnh minh họa: Đoàn Phú

Khoản 1, Điều 69 BLHS nêu rõ, người được xóa án tích thì coi như chưa bị kết án. Tuy nhiên, không phải ai chấp hành xong án phạt tù cũng được đương nhiên xóa án tích.

* Từng phạm tội có bị ghi án tích trong lý lịch tư pháp?

Do mâu thuẫn trong buôn bán, ngày 15-4, giữa ông L.Y. và ông C.L. (cùng H.Tân Phú) xảy ra xô xát làm ông L. bị thương tích 15%.

Trước đó, vào năm 2009, ông Y. từng bị tòa án tuyên phạt 5 năm tù giam về tội cố ý gây thương tích và đã chấp hành xong án phạt tù vào năm 2014. Tuy nhiên,  ông chưa thực hiện xong nghĩa vụ án phí dân sự, hình sự (do không được cơ quan nào nhắc hay yêu cầu ông phải nộp).

Do đó, ông Y. thắc mắc không biết ông có thuộc trường hợp đương nhiên được xóa án tích với bản án trước đó hay không. Vì nếu không được xóa án tích ông lo sợ phải đối diện với tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự về hành vi tái phạm đối với tội cố ý gây thương tích mà ông vừa gây ra.

Hoặc như trường hợp của bà T.O. (ngụ P.Trảng Dài, TP.Biên Hòa) trình bày, năm 2013, bà bị phạt 9 tháng tù giam về tội chứa mại dâm. Sau khi chấp hành xong án phạt tù, bà không phạm tội gì. Hiện bà O. có ý định xuất ngoại theo diện xuất khẩu lao động. Do đó, bà cần phải có lý lịch tư pháp. Bà lo lắng không biết lý lịch tư pháp của bà có bị ghi từng có tiền án về tội chứa chấp mại dâm hay không.

Trao đổi về các thắc mắc nêu trên, luật sư Ngô Văn Định, Phó giám đốc Trung tâm Tư vấn pháp luật (Hội Luật gia tỉnh) cho biết, do thông tin mỗi người cung cấp khác nhau nên việc xác định điều kiện được xóa án tích thuộc trường hợp đương nhiên được xóa án tích của từng người sẽ khác nhau. Tuy vậy, căn cứ vào Điều 69, BLHS thì vẫn nhận biết được ông, bà thuộc trường hợp đương nhiên được xóa án tích hay chưa.

“Trường hợp ông Y. do ông chưa tuân thủ Điểm a, Khoản 2, Điều 70 BLHS, tức ông chưa thực hiện xong nghĩa vụ dân sự theo bản án của tòa án nên không thuộc trường hợp đương nhiên được xóa án tích. Còn bà O., nếu bà hội đủ điều kiện theo Điểm a, Khoản 2, Điều 70 của BLHS thì đương nhiên được xóa án tích. Người được xóa án tích thì coi như chưa bị kết án nên không bị xem là tái phạm, tái phạm nguy hiểm hoặc ghi vào lý lịch tư pháp” - luật sư Ngô Văn Định trao đổi.

* Điều kiện được xóa án tích

Theo Khoản 1, Điều 369 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, người đương nhiên được xóa án tích yêu cầu cấp phiếu lý lịch tư pháp để chứng nhận việc đã được xóa án tích.

Luật sư Cao Sơn Hà (Đoàn Luật sư tỉnh) giải thích, án tích là hậu quả pháp lý của việc phạm tội và là một trong những hình thức thực hiện trách nhiệm hình sự. Án tích tồn tại trong suốt quá trình người phạm tội bị kết án về một tội phạm cho đến khi được xóa án tích. Quy định về xóa án tích trong BLHS xuất phát từ chính sách nhân đạo của Nhà nước, thể hiện thông qua thái độ không định kiến với người phạm tội, tạo điều kiện cho họ quên đi những mặc cảm về những lỗi lầm trong quá khứ, quyết tâm phục thiện với một lý lịch tư pháp trong sạch.

Theo BLHS, người đương nhiên được xóa án tích phải hội đủ các điều kiện như: người bị kết án không phải về các tội quy định tại Chương XIII và Chương XXVI của BLHS (tội xâm phạm an ninh quốc gia; phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh) khi họ đã chấp hành xong hình phạt chính, thời gian thử thách án treo hoặc hết thời hiệu thi hành bản án và đáp ứng các điều kiện quy định tại Khoản 2 và Khoản 3, Điều 70, BLHS.

Đồng thời, nếu từ khi chấp hành xong hình phạt chính hoặc hết thời gian thử thách án treo, người bị kết án đã chấp hành xong hình phạt bổ sung, các quyết định khác của bản án và không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn sau đây cũng đương nhiên được xóa án tích: 1 năm trong trường hợp bị phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, phạt tù nhưng được hưởng án treo; 2 năm trong trường hợp bị phạt tù đến 5 năm; 3 năm trong trường hợp bị phạt tù từ trên 5 năm đến 15 năm; 5 năm trong trường hợp bị phạt tù từ trên 15 năm, tù chung thân hoặc tử hình nhưng đã được giảm án.

Bên cạnh đó, những người sau đây được xem là không có án tích: đã được xóa án tích theo quyết định của tòa án; xóa án tích trong trường hợp đặc biệt; bị kết án do lỗi vô ý về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và người được miễn hình phạt.                                

Tin xem nhiều