Người Hoa là tộc người có dân số đông thứ hai sau người Việt ở Đồng Nai với 95.112 người, chiếm tỉ lệ 3,82% (số liệu thống kê ngày 01/4/2009). Người Hoa di cư vào Nam bộ thành nhiều đợt nhưng sớm nhất tử thế kỷ XVII.
Người Hoa là tộc người có dân số đông thứ hai sau người Việt ở Đồng Nai với 95.112 người, chiếm tỉ lệ 3,82% (số liệu thống kê ngày 01/4/2009). Người Hoa di cư vào Nam bộ thành nhiều đợt nhưng sớm nhất tử thế kỷ XVII.
Năm 1679, đoàn tướng binh di thần nhà Minh là Trần Thượng Xuyên và Dương Ngạn Địch đem theo 3.000 người đi trên 50 chiếc thuyền vào Đàng Trong. Từ nhóm người Hoa này, vùng đất Đồng Nai đã tiếp nhận những di dân người Hoa đầu tiên đến định cư. Từ đó, nhiều đợt người Hoa đến Nam bộ họ thuộc các bang: Quảng Đông, Phúc Kiến, Triều Châu, Hẹ và Hải Nam. Đến giữa thế kỷ XX, một bộ phận người Hoa từ Quảng Ninh, Móng Cái theo Voòng A Sáng di cư vào Bình Thuận sau đó đến Đồng Nai. Đây là nhóm người Hoa Hải Ninh mà người địa phương thường gọi là Hoa Nùng.
Trong kho tàng di sản văn hóa các dân tộc ở Đồng Nai bao gồm di sản văn hóa người Hoa thể hiện được đặc trưng văn hóa truyền thống của tộc người di dân sống trên vùng đất mới.
I. DI SẢN VĂN HÓA NGƯỜI HOA ĐỒNG NAI
Di sản văn hóa người Hoa là toàn bộ những giá trị văn hóa mà người Hoa đã sáng tạo, tích lũy được trong quá trình hoạt động thực tiễn xã hội, là thành tựu của thế hệ trước trao truyền cho thế hệ sau. Di sản văn hóa người Hoa chứa đựng những giá trị vật thể và phi vật thể mang đặc trưng của văn hóa truyền thống Trung Hoa vừa giao lưu văn hóa với người Việt và các dân tộc khác ở địa phương. Di sản văn hóa người Hoa thể hiện qua các yếu tố như: di vật, cổ vật, nhà ở, trang phục, ẩm thực, phong tục tập quán, tín ngưỡng tôn giáo, lễ hội, kiến trúc, nghệ thuật…
1. Di sản văn hóa vật thể người Hoa
* Di vật, cổ vật
Trong số hơn 1.000 hiện vật văn hóa dân tộc được sưu tầm, bảo quản và trưng bày tại Bảo tàng tỉnh có gần 300 hiện vật là di vật, cổ vật của người Hoa ở Đồng Nai (cùng với trên 2.000 ảnh tư liệu) thể hiện được kho tàng văn hóa vật thể của người Hoa ở Đồng Nai. Những di vật, cổ vật của người Hoa đã được sưu tầm như: nghiên mài mực Tàu, bút lông, bàn tính, đèn lồng, chân đèn, lư nhang, khay đựng chén cúng, quả cưới, lễ phục thầy cúng, dao lắc, lệnh, hộp nữ trang, giỏ mây tre xách tay, giỏ ba tầng đựng đồ, bàn tán thuốc Bắc, kệ gương và chậu rửa mặt của cô dâu, nón rộng vành, gióng gánh, cuốc bàn... Đặc biệt, những di vật là cổ vật như: tô chén gốm, dĩa gốm, hũ gốm, nậm rượu… nguồn gốc gốm Nam Trung Hoa có niên đại khoảng thế kỷ XVIII- XIX được phát hiện trong các sưu tập đồ tùy táng ở Đồng Nai và các tỉnh miền Đông Nam bộ.
Di vật, cổ vật người Hoa còn được thấy qua các tượng thờ trong các chùa, miếu, đặc biệt các cơ sở tín ngưỡng dân gian người Hoa ở Đồng Nai. Hay những nghi vật, nghi trượng sử dụng các lễ hội dân gian người Hoa…
* Nhà ở
Ngôi nhà người Hoa có giá trị văn hóa vật chất với kiến trúc nhà ở truyền thống theo kiểu nhà liên kế. Nhà này làm sát vách với nhà kia tạo nên dãy phố rất đặc trưng của người Hoa. Vách thường là vách gỗ, mái lợp tôn, sau này xây lại bằng vách tường gạch. Ở phố, do diện tích chật hẹp, người Hoa thường làm nhà một gian có gác, tầng trệt để buôn bán, gác để ở.
Nhà người Hoa bài trí bàn thờ Tổ Tiên ở nơi trang trọng nhất với lư hương, cặp chân đèn và bài vị. Bàn thờ Thổ Địa, Thần Tài đặt cùng một trang nhỏ dưới đất. Có nhà thờ Cửu Thiên Huyền Nữ, Quan Thánh Đế Quân, Phật bà Quan Âm, Thổ Địa và Tài Bạch Tinh Quân… Điểm đặc biệt trong trang trí ngôi nhà người Hoa là tục dán giấy đỏ trước cửa nhà. Mỗi dịp tết đến, người Hoa thường trang hoàng nhà cửa, dán giấy đỏ, treo tranh vẽ hoặc chiếc gương soi bên ngoài với một số kiêng kỵ trừ tà ma, cầu may mắn tốt lành.
Ở Đồng Nai, các phố người Hoa sống tập trung như: chợ Biên Hòa, đường Hùng Vương, khu vực chợ Cù lao Phố, thị xã Long Khánh, Nhơn Trạch, Tân Phú, Định Quán, khu vực làng đá phường Bửu Long, khu vực làm gốm phường Tân Vạn, khu vực chợ Phúc Hải phường Tân Phong... Ngày nay, người Hoa sống xen kẽ với người Việt, vì vậy nhà người Hoa được xây dựng theo lối kiến trúc giống nhà người Việt chỉ khác trước cửa nhà người Hoa có dán giấy hồng điều màu đỏ chữ nhũ vàng.
* Trang phục
Thường ngày, người Hoa mặc trang phục giống như người Việt; trang phục truyền thống chỉ mặc trong những dịp lễ tết ở gia đình, đình, miếu hay trong các dịp lễ hội. Trang phục truyền thống của người Hoa là áo dài kín cổ quần ống đứng đối với nam giới, phụ nữ bận áo dài xường xám (sườn xám). Trang phục nam giới thường ngày có áo ngắn xẻ nút ở phía trước có thắt nút vải; phụ nữ mặc áo ngắn cài nút ở bên cạnh, còn gọi là áo xẩm.
Vào những dịp lễ hội, các bang người Hoa ở Đồng Nai mặc trang phục truyền thống đối với nam giới là những bộ áo ngắn vạt dài quá mông, cổ đứng, xẻ thân giữa ngực cài khuy vải thắt ngang, có hai hoặc ba túi lớn ở phía trước, tay áo ngắn hoặc dài. Mỗi bang lại qui định một màu áo riêng biệt. Nữ giới mặc áo dài sườn xám ôm sát thân xẻ tà hai bên hoặc áo xẩm ngắn mặc váy ngắn xòe rộng rất thướt tha. Lễ phục nam giới của người Quảng Đông, Phúc Kiến là áo dài gấm màu xanh, đỏ đầu đội nón quả bí ôm sát đầu; người Hoa bang Hẹ là áo dài thụng bằng vải màu xanh lam đầu đội nón xếp lưỡi trai.
* Ẩm thực
Món ăn của người Hoa chủ yếu là món mì, hủ tiếu. Những món ăn nổi tiếng của người Hoa hiện nay như: vịt quay ăn với bánh mì kèm dưa leo, nước sốt chấm; món mì hoành thánh (vằn thắn); hủ tiếu mì; bánh bao, há cảo, sủi cảo, cơm chiên dương châu, mì xào giòn… Đặc sản của người Hẹ Bửu Long là bánh “dính bần” làm bằng bột gạo tẻ pha một ít bột nếp trộn với bột lá mơ lông. Khi làm bánh, người ta trộn hỗn hợp gạo+ lá mơ lông+ đường cát, đem hấp, bánh chín có mùi thơm đặc trưng không lẫn với các loại bánh khác. Ngoài ra còn có các loại bánh khác như: bánh tổ, bánh bao chỉ, bánh canh. Món ăn ưa thích của người Hẹ là khoai môn kẹp thịt heo quay, đậu hũ nhồi thịt… Bên cạnh trà, người Hoa còn chế biến và thưởng thức nhiều loại đồ uống có tác dụng giải nhiệt rất tốt như: nước bông cúc, nước La Hán quả, nước sâm, nước đắng…
* Nghề thủ công truyền thống
Người Hoa ở thành thị, ngoài buôn bán, họ còn thành thạo nghề thủ công. Người Hoa ở Đồng Nai làm nhiều nghề thủ công nhưng có hai nghề rất tiêu biểu, được cho là sản xuất có qui mô tập trung và còn tồn tại đến nay. Đó là nghề làm gốm lu ở Tân Vạn và đục đá xanh ở Bửu Long.
- Nghề làm gốm lu: do những người Hoa bang Quảng Đông, Phúc Kiến đem đến vùng đất Tân Vạn khoảng cuối thế kỷ XIX. Những sản phẩm người Hoa tạo ra gồm có: lu, khạp, mái vú, chậu, ống ghè, chén, dĩa… nói chung là đồ gốm gia dụng. Phương pháp làm gốm của người Hoa ở Tân Vạn chủ yếu bằng tay với phương pháp dải cuộn. Không chỉ nam giới mà cả những phụ nữ người Hoa cũng có thể tạo hình những chiếc lu có kích thước lớn bằng phương pháp dải cuộn từng phần. Những người Hoa lớn tuổi ở Tân Vạn hiện nay vẫn còn duy trì nghề làm gốm lu bằng tay truyền thống.
- Nghề khai thác và điêu khắc đá xanh: Những người Hẹ làm đá xanh đã tạo nên làng nghề điêu khắc đá truyền thống tồn tại hàng trăm năm nay. Sản phẩm đá xanh gồm: bia mộ, tượng thờ, cối chày, đèn đá và các công trình kiến trúc tín ngưỡng (như một số hạng mục vách tường, cột bằng đá ở Thất Phủ Cổ miếu và Thiên Hậu Cổ miếu…).
* Nhạc cụ, nhạc khí
- Các loại nhạc cụ người Hoa thường sử dụng trong lễ hội như: chuông, khánh, đàn tam thập lục, hồ cầm, đàn nhị hồ, đàn nguyệt, tiêu, sáo, mõ, bộ gõ, kèn, trống, đồng cổ, chập chõa… Những làn điệu sử dụng trong nghi lễ được tạo bởi những nhạc cụ này bao giờ cũng có những giai điệu trầm buồn, réo rắt, hòa vào với những lời kinh tụng của các Đạo sĩ, thầy cúng tạo nên âm thanh riêng biệt và đặc trưng cho nghi lễ truyền thống của người Hoa.
- Trong các lễ vía Quan Âm, người Hoa Hải Ninh sử dụng những loại nhạc cụ như: chập chõa, phèng la, tù và, kèn đồng. Những nhạc cụ ngày được các thầy cúng sử dụng khi hành lễ. Âm thanh tạo nên từ nhạc cụ kèm theo hát xướng và những động tác múa nghi lễ mang ảnh hưởng của văn hóa tâm linh Phật giáo, Đạo giáo và tín ngưỡng dân gian.
- Nhạc khí: trong các lễ hội theo nghi lễ Đạo giáo, Đạo trưởng tay cầm khánh là nhạc khí tròn dẹp như chiếc gương đồng vừa gõ vừa tụng Thái Thượng Nguyên Môn kinh (sách nghi lễ Đạo giáo) để tụng kinh hành lễ. Các chất liệu của nhạc khí (đồ gỗ, đồ đồng) sử dụng trong nghi lễ bao giờ cũng đáp ứng về tính chất tạo thanh âm và thanh dương biểu hiện sự hài hòa của trời đất.
* Di tích lịch sử văn hóa
Đồng Nai có ba di tích đã được xếp hạng là di tích lịch sử văn hóa của người Hoa gồm: đình Tân Lân, Chùa Ông, miếu Tổ Sư. Cả ba di tích này đều có đặc trưng chung là trang trí mặt tiền bằng các quần thể tiểu tượng gốm được cho là sản phẩm của gốm Cây Mai (Sài Gòn) thế kỷ XIX. Ngoài ra, còn có trên 60 cơ sở tín ngưỡng dân gian đã được kiểm kê phổ thông.
Đình Tân Lân là sản phẩm của quá trình giao lưu văn hóa Việt – Hoa được xây dựng từ thế kỷ XVIII. Ngôi đình thờ Trần Thượng Xuyên được xem là thần Thành hoàng của cả người Hoa lẫn người Việt. Đình mang phong cách kiến trúc dân gian Nam bộ, tuy nhiên mặt tiền đình thì được trang trí quần thể tiểu gốm đặc trưng nghệ thuật trang trí người Hoa... Đình Tân Lân do người Hoa quản lý, hàng năm tổ chức lễ hội Kỳ yên khá qui mô thu hút đông đảo người dân trong và ngoài địa phương tham gia, cúng viếng. Đây là di tích Lịch sử văn hóa cấp Quốc gia.
Chùa Ông (Thất Phủ Cổ miếu) tọa lạc ở cù lao Phố là một trong những cơ sở tín ngưỡng dân gian người Hoa thờ Quan Thánh Đế Quân. Chùa Ông được xây dựng năm 1684, chỉ 5 năm sau khi người Hoa đến Nam Bộ. Chùa Ông chứa đựng nhiều giá trị lịch sử văn hóa và nghệ thuật kiến trúc, bảo tồn được văn hóa truyền thống Trung Hoa thông qua sinh hoạt tín ngưỡng dân gian. Di tích Chùa Ông đã được công nhận là di tích Lịch sử văn hóa cấp Quốc gia.
Miếu Tổ sư (Thiên Hậu Cổ miếu) là di tích được xếp hạng cấp Tỉnh có kiến trúc nghệ thuật đặc trưng của người Hoa. Công trình này đặc biệt bởi vì đa phần kết cấu, nền, tường… đều dược xây dựng bằng đá granit (lấy từ vùng Bửu Long). Miếu Tổ Sư vốn là nơi thờ Tổ nghề đá, rèn, mộc sau đổi thành Thiên Hậu Cổ miếu.
2. Di sản văn hóa phi vật thể người Hoa
Đời sống văn hóa tinh thần người Hoa rất phong phú, đa dạng, phản ánh trong đời sống văn hóa tinh thần như: mỹ thuật trong kiến trúc tín ngưỡng, nghệ thuật tạo hình, nghệ thuật biểu diễn, đám cưới, đám tang, ma chay, lễ hội, sinh hoạt văn hóa dân gian, văn cúng, hoành phi liễn đối chữ Hán…
* Kho tàng di sản chữ Hán
Khi nói đến di sản văn hóa phi vật thể không thể không nói đến kho tàng di chữ Hán được xem là tinh hoa văn hóa của văn minh Trung Hoa. Di sản chữ Hán người Hoa thể hiện qua hệ thống văn liệu chữ Hán như: câu đối, hoành phi, liễn đối, văn cúng, kinh sách tiếng Hán, lá giải xăm... Những hoành phi, câu đối chữ Hán thường thấy ở các đình, chùa, miếu của người Hoa, Việt, Tày, Nùng... Nội dung chữ Hán ca ngợi công trạng của thần linh được tôn thờ, bài thơ phú về phong cảnh, sơn thủy, truyền thuyết, tuồng tích lịch sử Trung Hoa hoặc mang ý nghĩa giáo dục nhân văn sâu sắc.
* Mỹ thuật kiến trúc
Đặc trưng mỹ thuật trên đình, miếu người Hoa là ở các mảng trang trí với các đề tài cụ thể. Những chi tiết trang trí kiến trúc ban đầu trên các di tích thường là những đồ án cổ điển của Trung Hoa như: bát tiên, bát bửu, long mã hà đồ, lưỡng long tranh châu, lưỡng long triều nhật, cuốn thư, ống bút, kiếm quạt, bầu rượu, túi thơ bình hoa, quả đào, quả lựu, quả phật thủ, hoa cúc, hoa mẫu đơn, rồng phượng; các tích truyện của Trung Quốc như: Tam Quốc Diễn Nghĩa, Bát Tiên… dần dần cũng thay đổi hoặc có thêm nhiều mô-típ trang trí mới, gắn liền với thiên nhiên, con người, động thực vật của vùng đất Nam bộ trù phú.
Đặc biệt, trên nóc mái đình, miếu người Hoa thường trang trí mỹ thuật bằng những hạng mục bằng gốm mỹ nghệ rất độc đáo. Hàng trăm tượng gốm nhỏ, sắc sảo được gắn chi chít tạo thành những quần thể tiểu tượng, ô, cụm trang trí độc đáo, đặc trưng trên nóc mái đình miếu người Hoa. Tất cả những đồ gốm này mang nhiều giá trị nghệ thuật được cho là sản phẩm của gốm Cây Mai- Sài Gòn thế kỷ XIX. Tiêu biểu có thể thấy tại Thất Phủ Cổ Miếu (chùa Ông), đình Tân Lân và Thiên Hậu Cổ Miếu.
* Tín ngưỡng dân gian
Người Hoa có một đời sống tâm linh khá phong phú. Người Hoa tôn sùng rất nhiều thần linh, tín ngưỡng từ trong gia đình đến cộng đồng. Các tín ngưỡng dân gian của người Hoa như: thờ Thần Tài, Táo Quân, Môn thần, Ngọc Hoàng, Tề Thiên, Quan Thánh Đế Quân, Thiên Hậu Thánh Mẫu, Ông Bổn, Phúc Đức Chính Thần, các linh vật… Tín ngưỡng người Hoa có ảnh hưởng sâu sắc theo quan niệm của Đạo giáo và Nho giáo nên rất phong phú, đặc thù của truyền thống văn hóa Trung Hoa. Ngoài tín ngưỡng dân gian, người Hoa còn theo đạo Phật với đối tượng thờ phổ biến là Phật Bà Quan Âm. Đạo Phật ảnh hưởng rất sâu sắc đến đời sống tinh thần của người Hoa. Trong đó, lễ cầu siêu ảnh hưởng từ đạo Phật chi phối mạnh mẽ đến đời sống tâm linh của họ.
* Lễ Tết trong năm
Người Hoa có tục đón năm mới vào tết Nguyên đán. Những lễ hội tiêu biểu của người Hoa như: tết Nguyên Tiêu, tết Thanh Minh, tết Đoan Ngọ, tết Trung Nguyên hoặc lễ Vu Lan, tết Trung Thu, tết Trùng Cửu (trùng dương)… Lễ hội lớn của người Hoa ở Đồng Nai đa phần là lễ hội tôn giáo tín ngưỡng. Ngoài những dịp tết và vía đầu năm, những lễ hội còn lại gắn với các đối tượng thờ tự ở cơ sở tín ngưỡng tôn giáo. Đặc biệt lễ hội cầu an, cầu siêu là những lễ hội được tổ chức tại các miếu, chùa, nghĩa từ, nghĩa trang, tôn từ của người Hoa. Phần lễ ở các cơ sở tín ngưỡng này thường do các chư tăng, pháp sư hoặc Ban Trị sự miếu thực hiện. Còn phần hội thì tổ chức đấu giá đèn lồng, hát bội và múa lân sư rồng…
* Lễ hội dân gian
Lễ hội dân gian của người Hoa ở Đồng Nai bao gồm những lễ hội như: vía Quan Thánh Đế Quân, vía Thiên Hậu Thánh Mẫu, lễ giỗ Trần Thượng Xuyên, Tiên Sư Bửu đản, vía Quảng Trạch Tôn Vương, lễ Làm Chay vía Tổ Nghề, lễ Tả Tài Phán cầu an cầu siêu, lễ vía Quan Âm Bồ tát, vía Kim Hoa Nương Nương,.. Những lễ hội này có tính chất vía thần linh, vía Tổ nghề, cúng giỗ, vía thần bửu đản, vía thần nhập đạo, vía thần đắc đạo, cầu an, cầu siêu... Ngoài ra, còn có lễ cầu an cầu siêu với tính chất thờ cúng Tổ Tiên và những người đã mất. Nhìn chung, các nghi lễ tại các đình, miếu người Hoa ở Đồng Nai phản ánh được sinh hoạt tín ngưỡng dân gian của cộng đồng, thể hiện khát vọng và ước mong về sự an bình, may mắn và thuận lợi trong cuộc sống xã hội vốn còn nhiều bất trắc, rủi ro, khó khăn, thử thách.
* Phong tục tập quán
- Hôn nhân: Đám cưới trước kia của người Hoa rất cầu kỳ ảnh hưởng của lễ thức Nho giáo phương Đông. Ngày nay, lễ cưới của người Hoa tương tự người Việt được chia làm hai giai đoạn: lễ hỏi và lễ cưới. Khi đôi trai gái ưng nhau và được gia đình hai bên chấp thuận thì người ta so tuổi và nhờ ông mai đi dạm hỏi, làm đám nói (lễ ăn hỏi). Ông mai thỏa thuận về sính lễ, ngày cưới. Trong số lễ vật cưới của người Triều Châu thường có trái cau duy nhất tượng trưng cho người con gái đã là vợ của một người; cũng có cô dâu khi về nhà chồng đem theo cặp cây mía biểu thị hạnh phúc ngọt ngào.
Người Quảng Đông thì làm bánh bò nổi (pha cú) hoặc tục lệ ăn chè ỷ (giống bánh trôi viên tròn) tượng trưng cho sự viên mãn, con đàn cháu đống. Đám cưới diễn ra tuần tự ở hai bên nhà trai và nhà gái. Đám cưới ngày nay đơn giản hơn trước rất nhiều, một số nghi thức đã được lược bỏ. Tặng phẩm trong đám cưới được thay bằng phong bao (tiền) giúp cho đôi vợ chồng làm vốn bắt đầu cuộc sống hôn nhân. Khi rước dâu về nhà chồng, có tục cô dâu rót rượu trà mời gia đình bên chồng biểu thị sự kính trọng, vâng phục phép tắc nhà chồng; rót rượu mời chồng đêm tân hôn thể hiện sự đằm thắm chung thủy, phục tùng chồng.
- Tang ma: Đám tang của người Hoa trước kia gồm tuần tự các lễ như: lễ cáo phó, mua nước về phạm hàm, lễ phạm hàm, khâm liệm, phát tang, di quan, mở cửa mả, cúng 49 ngày... Ngày nay, việc ma chay của người Hoa ở Đồng Nai có những nét tương đồng với người Việt ở địa phương. Đám tang gồm các bước: báo tang, phát tang, khâm liệm, phúng điếu, đưa đám tang chôn cất, mở cửa mả… Ở thành phố, thị xã, thị trấn, lúc đưa đám ngoài ban nhạc ngũ âm, đối với tang chủ khá giả người ta còn thấy có một số ban nhạc kèn tây phục vụ tấu những khúc nhạc sôi động. Trước năm 1995 (chưa có lệnh cấm đốt pháo), đám tang của người Hoa còn có tục đốt pháo để trừ tà ma.
* Nghệ thuật biểu diễn
- Hát Tiều: Hát Tiều là nghệ thuật ca kịch của đồng bào người Hoa bang Triều Châu nay được các Ban người Hoa Biên Hòa tạo lập với tên gọi là Ban Nhạc cổ truyền Triều Châu (Thất Phủ Cổ Miếu- Biên Hòa) phục vụ trong các lễ hội người Hoa ở địa phương. Nhạc cụ trong dàn nhạc Triều Châu gọi là đại la cổ1 gồm có: trống lớn, trống nhỏ, thanh la, chập chõa các cỡ khác nhau. Khi biểu diễn, mỗi lần đến cao trào, các thanh la và trống đánh hết cỡ, làm vang động cả một góc trời. Đây là đặc điểm để phân biệt với dàn nhạc Quảng Đông, chủ yếu gồm nhạc cụ thổi, như kèn, sáo, tiêu... nên người nghe âm thanh ò í e rõ hơn tiếng trống. Lời ca và tiếng nhạc Tiều réo rắt đầy chất văn hóa Trung Hoa với nhiều xúc cảm đã góp phần tạo thêm không khí tưng bừng và vui vẻ, thu hút nhiều người đến với lễ hội người Hoa.
- Hát Quảng và hát Bội: Ngoài hát Tiều, người Hoa ở Đồng Nai còn mời các đoàn nghệ thuật Hát Quảng Đông ở Tp.Hồ Chí Minh về biểu diễn. Những giai điệu trong hát Quảng là nghệ thuật dân gian lâu đời của người Quảng Đông, góp phần làm cho phần hội thêm ấn tượng và đặc sắc. Bên cạnh đó còn có hát Bội do người Việt biểu diễn những tuồng tích lịch sử Trung Hoa thể hiện sự giao lưu văn hóa ở địa phương.
- Nghệ thuật múa lân sư rồng: của người Hoa mang nhiều ý nghĩa tốt đẹp cho cuộc sống. Con lân đem lại sự thái bình, cầu an; sư tử và rồng là những con vật có sức mạnh là những vật linh trong đời sống tinh thần của người Hoa. Người Hoa thường biểu diễn nghệ thuật múa lân sư rồng vào các dịp lễ hội lớn. Ngoài lân, sư, rồng còn có múa hẩu biểu diễn chúc Thần trước sân miếu trong tiếng nhạc cụ, phèng la và chập chõa tấu vang rộn rã…
Những đội lân nổi tiếng của người Hoa ở Đồng Nai như: Thạch Sơn Liên Thắng Đường, Tân Khánh Đường và Đại Khánh Đường. Những mạnh thường quân đến cúng viếng chùa bằng việc thuê những đội lân sư rồng biểu diễn ở giữa sân chùa thể hiện lòng sùng tín đối với Đức Ông Quan Thánh. Múa lân sư rồng là sinh hoạt văn hóa tiêu biểu thu hút được đông đảo người hiếu kỳ đứng xung quanh xem và cổ vũ, tạo nên không khí tưng bừng, nhộn nhịp và vui tươi trong lễ hội người Hoa.
II. BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI SẢN VĂN HÓA NGƯỜI HOA TRONG HÒA BÌNH VÀ PHÁT TRIỂN
1. Bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa người Hoa
- Sưu tầm, bảo quản những hiện vật người Hoa tại Bảo tàng tỉnh và các cơ sở tín ngưỡng người Hoa. Việc sưu tầm và bảo quản di vật, cổ vật, hiện vật người Hoa trên địa bàn tỉnh là cần thiết. Sưu tầm nhằm lưu giữ những di sản văn hóa vật thể trong các gia đình, các cơ sở tín ngưỡng người Hoa. Nhiệm vụ bảo quản là nhằm bảo vệ sự nguyên vẹn của các di vật, cổ vật người Hoa đã sưu tầm đem về trong kho bảo tàng. Trên cơ sơ đó phục vụ cho việc nghiên cứu và trưng bày, hướng dẫn khách tham quan, giới thiệu di sản văn hóa người Hoa đến với quần chúng nhân dân.
- Một trong những nhiệm vụ bảo tồn, đó là trùng tu, bảo quản di tích lịch sử văn hóa đã được xếp hạng. Công tác trùng tu di tích nhằm kéo dài tuổi thọ của di tích, bảo đảm sự nguyên vẹn của di sản trước sự phá hủy của tự nhiên và của con người, đặc biệt tránh sự xâm phạm, lấn chiếm di tích. Tuy nhiên, bảo tồn cần được tiến hành trên cơ sở giữ gìn những yếu tốc gốc, tránh làm mới diện mạo di tích.
- Khảo sát, nghiên cứu lập hồ sơ xếp hạng di tích người Hoa trên địa bàn tỉnh. Hệ thống cơ sơ tín ngưỡng người Hoa ở Đồng Nai khá phong phú bao gồm nhiều loại hình (đình, miếu, cung, tự, nghĩa từ). Cần tiếp tục triển khai việc nghiên cứu, khảo sát các di tích phổ thông của người Hoa trên cơ sở đó có thể đánh giá, lập hồ sơ đề nghị công nhận nhiều di tích lịch sử văn hóa của người Hoa ở địa phương.
- Phát huy hiệu quả của di sản văn hóa người Hoa: tuyên truyền rộng rãi các di tích đã được xếp hạng bằng các hình thức truyền thông, đặc biệt hình thành các tuyến du lịch tham quan di sản văn hóa người Hoa ở địa phương, làng nghề gốm ở Tân vạn, làng nghề điêu khắc đá Bửu Long và các vùng đồng bào người Hoa sinh sống… Bên cạnh đó, phát huy vai trò của Bảo tàng tỉnh trong việc kết nối các tour du lịch đến tham quan phòng trưng bày văn hóa người Hoa tại bảo tàng.
- Bảo tồn các giá trị văn hóa phi vật thể của người Hoa như: tục đấu giá đèn lồng, lễ hội dân gian, nghệ thuật biểu diễn, diễn xướng dân gian. Hình thành và bảo lưu những giá trị văn hóa qua sinh hoạt tín ngưỡng như: lễ hội, phong tục tập quán, mỹ thuật kiến trúc tín ngưỡng, âm nhạc, nhạc cụ; đặc biệt nghệ thuật diễn xướng dân gian như hát Quảng, hát Tiều, nghệ thuật múa lân sư rồng, bí quyết nghề thủ công truyền thống… của người Hoa.
- Xây dựng kho tàng dữ liệu văn hóa phi vật thể phục vụ cho công tác nghiên cứu, phổ biến, truyền dạy về văn hóa dân gian, đặc biệt truyền dạy chữ Hán, truyền dạy các nghề thủ công, các tri thức dân gian người Hoa…
- Khôi phục và quảng bá lễ hội người Hoa như : lễ hội chùa Ông (cù lao Phố- Biên Hòa), lễ làm Chay vía Tổ nghể ở Thiên Hậu Cổ miếu, lễ hội Tả Tài Phán… phù hợp với nhu cầu của cộng đồng người Hoa trong điều kiện phát triển kinh tế xã hội ở địa phương.
- Quáng bá di sản văn hóa ngưởi Hoa trong cộng đồng các dân tộc thiểu số địa phương nhằm xây dựng nền văn hóa Việt Nam trong thống nhất, đa dạng vì mục tiêu hòa bình và phát triển.
- Bổ sung nội dung phong phú hơn nữa về chuyên mục văn hóa trong các chương trình tiếng Hoa trên Đài Phát thanh- Truyền hình Đồng Nai. Cần nhân rộng gương tiêu biểu điển hình người tốt việc tốt trong đồng bào dân tộc thiểu số người Hoa làm cơ sở cho việc tuyên truyền và tăng cường chính sách dân tộc trong đồng bào người Hoa.
- Lập danh mục các di sản văn hóa phi vật thể người Hoa đăng ký vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia như: Lễ hội Làm Chay vía Tổ nghề, Lễ hội Tả Tài Phán, lễ hội Quan Thánh Đế Quân, nghề làm gốm lu, nghề điêu khắc đá...
2. Huy động xã hội hóa trong bảo tồn và quảng bá di sản văn hóa người Hoa
Các nhà sưu tập tư nhân yêu thích di vật cổ vật đã bỏ kinh phí mua các bộ sưu tập là di vật, cổ vật của người Hoa để tích lũy trong bộ sưu tập hiện vật văn hóa các dân tộc. Những cổ vật thường thấy là đồ gốm cổ Trung Hoa, hay một số ít là các sản phẩm đá, gốm của người Hoa ở Đồng Nai.
Người Hoa là cộng đồng vốn giỏi kinh doanh buôn bán, thể hiện thanh thế về tài chính trong xã hội. Những dịp tổ chức lễ hội truyền thống, đều không thể không có những mạnh thường quân hay các nhà hảo tâm quan tâm đóng góp tiền của cho việc tổ chức lễ hội, hoặc làm từ thiện. Năm 2009, bằng kinh phí xã hội hóa, Ban liên lạc người Hoa Biên Hòa đã huy động được hàng chục tỷ đồng trong việc trùng tu tôn tạo di tích Thất Phủ Cổ Miếu (Chùa Ông ở Cù lao Phố). Không những thế, nhiều cơ sở tín ngưỡng người Hoa được cộng đồng quan tâm đầu tư kinh phí trùng tu, tu sửa và bảo vệ di tích khá hiệu quả.
Những dịp tổ chức lễ hội, cũng là dịp để người Hoa thể hiện quá trình tham gia xã hội hóa trong việc quảng bá sinh hoạt tín ngưỡng dân gian của mình. Người Hoa đóng góp tài chính để tổ chức các lễ hội thể hiện sự ngưỡng vọng tôn kính đối với thần linh, ngoài ra còn là việc tích phúc cho bản thân và gia đình khi đóng góp phước sương và làm từ thiện.
Một số cơ sở tín ngưỡng người Hoa đã thiết kế các website để quảng bá về cơ sở tín ngưỡng trong và ngoài cộng đồng. Thiên Hậu cổ Miếu lập Webstie “Miếu Tổ Sư” là một trong những ngôi chùa Hoa làm tốt công tác tuyên truyền quảng bá di sản văn hóa địa phương bằng hình thức xã hội hóa. Hoặc nhiều bài viết, hình ảnh được các cá nhân khi tham quan hoặc tham gia sinh hoạt tín ngưỡng tại các di tích lịch sử văn hóa người Hoa đã giới thiệu trên các blog cá nhân của mình…
3. Giá trị di sản văn hóa người Hoa trong hòa bình và phát triển
Di sản văn hóa người Hoa là những tài sản quý báu do cộng đồng người Hoa sản sinh và duy trỉ trong cộng đồng. Những sản phẩm văn hóa ấy vừa mang dấu ấn vật chất, vừa mang dấu ấn tinh thần. Việc sưu tầm, lưu giữ, bảo tồn và phát huy những di sản ấy nhằm phục vụ cho mục đích giáo dục vì sự hòa bình và phát triển. Trong bối cảnh xã hội phát triển ngày nay, việc giữ gìn, bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa các dân tộc là vô cùng quan trọng. Bởi chính những giá trị văn hóa ấy đã là nguồn động lực để các dân tộc cùng phát triển. Bên cạnh đó, nhiều giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể cũng đã bị mai một, vì vậy tăng cường tuyên truyền, gìn giữ, khai thác các giá trị di sản văn hóa của các dân tộc là cần thiết hơn bao giờ hết góp phần nâng cao nhận thức trong cộng đồng địa phương về di sản văn hóa.
Di sản văn hóa người Hoa ở Đồng Nai là thành tựu của bao thế hệ lưu dân người Hoa sinh sống trên vùng đất mới Đồng Nai- Nam bộ đã tạo dựng và duy trì những truyền thống văn hóa tốt đẹp của cộng đồng. Thông qua những di sản văn hóa người Hoa, càng bổ sung cho kho tàng văn hóa các dân tộc ở Việt Nam thêm phong phú, đa dạng. Hoạt động từ thiện của người Hoa thông qua lễ hội thể hiện trách nhiệm sống trong cộng đồng, đoàn kết tương trợ giúp đỡ nhau qua các hình thức như chẩn tế lương thực cho những người nghèo, biểu hiện văn hóa ứng xử chan hòa của người Hoa trong toàn xã hội.
Văn hóa người Hoa là một bộ phận của nền văn hóa Việt Nam, vì vậy, di sản văn hóa luôn có vai trò trong việc giáo dục và gìn giữ vì hòa bình thống nhất của các dân tộc trên lãnh thổ Việt Nam. Bên cạnh đó, di sản văn hóa còn có vai trò là cầu nối giữa quá khứ, hiện tại và tương lai, góp phần làm cho bản sắc văn hóa Việt Nam ngày càng được bổ sung phong phú và đa dạng.
Tóm lại, di sản văn hóa là thành phần quan trọng của nền văn hóa dân tộc. Vì vậy, muốn giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, thì phải xem việc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa như một quốc sách. Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, việc nhận thức lại vai trò của di sản văn hóa đối với sự phát triển kinh tế – xã hội là một vấn đề cấp thiết. Di sản văn hóa còn là tiềm năng phát triển kinh tế dồi dào nếu kết hợp giữa bảo tồn và khai thác du lịch. Di sản văn hóa là cầu nối góp phần tạo ra sự hiểu biết lẫn nhau, tăng cường hợp tác quốc tế vì hòa bình, vì sự phát triển của xã hội, của quốc gia và của các dân tộc.
ThS. Nguyễn Thị Nguyệt


![[Video_Chạm 95] Phường Bình Phước](/file/e7837c02876411cd0187645a2551379f/122025/4_c95_binh_phuoc.mp4.00_00_45_19.still001_20251221105654.jpg?width=400&height=-&type=resize)









