Báo Đồng Nai điện tử
Hotline: 0915.73.44.73 Quảng cáo: 0912174545 - 0786463979
En

Bảo tồn phát huy các giá trị văn hóa Đồng Nai hướng đến mục tiêu phát triển bền vững

04:11, 26/11/2013

Đồng Nai hiện nay là tỉnh thuộc miền Đông Nam Bộ, có diện tích 5.903,940 km2, chiếm 1,76% diện tích tự nhiên cả nước và chiếm 25,5% diện tích tự nhiên của vùng Đông Nam Bộ. Với dân số khoảng 2.600.000 người. Tỉnh có 11 đơn vị hành chính trực thuộc gồm 01 thành phố, 01 thị xã và 9 huyện.

Đồng Nai hiện nay là tỉnh thuộc miền Đông Nam Bộ, có diện tích 5.903,940 km2, chiếm 1,76% diện tích tự nhiên cả nước và chiếm 25,5% diện tích tự nhiên của vùng Đông Nam Bộ. Với dân số khoảng 2.600.000 người. Tỉnh có 11 đơn vị hành chính trực thuộc gồm 01 thành phố, 01 thị xã và 9 huyện.

Đồng Nai phát triển công nghiệp từ rất sớm cộng với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế đúng hướng sau 27 năm thực hiện sự nghiệp đổi mới, đã mang lại cho địa phương những thế mạnh và tiềm lực là một trong những tỉnh có tốc độ phát triển nhanh của Việt Nam. Hơn 310 năm hình thành, phát triển, vùng đất Biên Hoà - Đồng Nai với những thay đổi lớn về địa giới hành chính qua nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau, cộng với sự di chuyển cơ học của các đợt di dân, sự vận động, thay đổi của các cư dân bản địa đã mang đến cho vùng đất Đồng Nai những sắc thái của vùng đất đa dân tộc.

 Việt Nam có 54 dân tộc anh em, thì tại Đồng Nai đã có đến 32 dân tộc trong đó có 31 dân tộc thiểu số.  Theo số liệu năm 2009, dân tộc thiểu số sinh sống trên địa bàn tỉnh Đồng Nai có 31 dân tộc với 175.128 người[1]. Đồng bào các dân tộc sống xen kẽ, rải rác tại hầu hết các địa phương trong tỉnh. Một số ít dân tộc sống tập trung thành làng, bản tại một số khu vực, như dân tộc Tày, Nùng, Hoa, Chơro, Mạ, X’Tiêng…

Với những đặc điểm về vùng đất, địa lý, truyền thống, con người, đã tạo cho Đồng Nai những giá trị văn hoá đa nguồn, đa giá trị, trên nền tảng văn hóa Việt Nam, thể hiện sắc thái của vùng đất mới. Một vùng đất đậm nét mở và kết nối: làng mở, mở lòng, kết nối giữa cái cũ và cái mới, kết nối giữa văn hoá truyền thống và văn hoá mới tạo nên văn hoá hỗn dung. Hòa nhập, hội tụ, tiếp biến tạo nên ở Đồng Nai các giá trị văn hoá mới từ các nền văn hoá khác nhau (giữa Môn – Khơme, Maylaya – Polysien, Việt (Bắc – Trung –Nam), Hoa, Âu Tây, Nho, Phật, Thiên chúa).

Chính với những đặc trưng ấy đã tạo nên tính chất bền vững đối với các giá trị văn hoá đã được khẳng định, đồng thời cũng vun đắp, trau dồi tạo nên các giá trị mới của vùng đất (văn hóa gốc Bắc, gốc Trung, gốc Hoa; văn hoá của các dân tộc thiểu số khác đến định cư, lập nghiệp), song cũng tạo ra các nguy cơ và thách thức đối với các giá trị văn hóa bản địa dễ bị mai một do quá trình hiện đại hóa, đô thị hóa (Kinh hóa, Âu hóa, thị dân hóa) hoặc các giá trị văn hóa bị thay đổi.

Mặt khác, tốc độ phát triển kinh tế - xã hội ở Đồng Nai luôn ở nhịp độ cao, tạo sự chuyển đổi nhanh chóng, toàn diện trong cuộc sống, cũng tác động nhiều đến hệ giá trị văn hóa truyền thống tạo sự thay đổi nhanh, nhiều giá trị mới được hình thành phát triển phù hợp với xu thế chung, tuy vậy cũng có nhiều giá trị bị tổn thương, biến mất.

Với định hướng phấn đấu trở thành tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2015, Đồng Nai đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Điều này làm xuất hiện nhiều nhân tố mới, nhiều nhu cầu mới, nhiều giá trị văn hóa mới. Hiện tại, tỉnh có 31 khu công nghiệp đang hoạt động, thu hút thường xuyên trên 700 nghìn lao động. Phần lớn người lao động đều trẻ tuổi và có nguồn gốc quê quán từ nhiều tỉnh, thành cả nước, còn có cả không ít người nước ngoài làm ăn và sinh sống tại đây đã tạo thêm nhiều giá trị mới làm giàu thêm các giá trị văn hoá truyền thống của vùng đất, mặt khác cũng tác động thúc đẩy, làm thay đổi nhanh các giá trị văn hoá truyền thống.

Từ những năm 90 của Thế kỷ XX đến nay, Việt Nam thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Do đó, các quy luật của kinh tế thị trường đã và đang tác động vào mọi mặt của đời sống xã hội, nhất là những tác động mặt trái của cơ chế thị trường đã tạo ra sự xung đột mới giữa việc bảo tồn, gìn giữ, trao truyền các giá trị văn hoá truyền thống dân tộc với việc chạy theo thị hiếu đời sống thực dụng làm phủ lấp, làm phai nhạt, đánh tráo nội hàm các giá trị văn hoá truyền thống, làm chậm hoặc lệch chuẩn quá trình phát triển. Hệ luỵ tiêu cực này kéo dài sẽ dẫn đến hệ quả đánh mất bản sắc văn hoá dân tộc. Chính vì vậy, mọi tính toán để phát triển kinh tế sẽ trở nên vô dụng nếu không đi kèm với việc bảo tồn, gìn giữ, phát huy văn hoá truyền thống dân tộc, với việc bảo vệ môi trường sống cho con người. Một bài toán đặt ra đối với bất kỳ một quốc gia, dân tộc, vùng đất nào trên thế giới hiện nay muốn hướng đến mục tiêu phát triển bền vững. Đây cũng là vấn đề trăn trở đối với cấp uỷ Đảng, chính quyền tỉnh Đồng Nai.

Bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam được xác định thông qua 10 nội dung thể hiện trong Nghị quyết hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VIII) về xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc ngày 16/7/1998.

Bảo tồn và phát huy các di sản văn hoá là một nhiệm vụ quan trọng cũng đã được xác định, đó là: “ Di sản văn hoá là tài sản vô giá, gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi của bản sắc dân tộc, cơ sở để sáng tạo những giá trị mới và giao lưu văn hoá. Hết sức coi trọng bảo tồn, kế thừa, phát huy những giá trị văn hoá truyền thống (bác học và dân gian), văn hoá cách mạng, bao gồm cả văn hoá vật thể và phi vật thể.”

Thực hiện sự chỉ đạo của Trung ương, với vị trí và tầm vóc của một tỉnh công nghiệp đang trên đà phát triển, lấy mục tiêu phát triển bền vững là trọng tâm (phát triển kinh tế song song với bảo tồn, gìn giữ, phát triển văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường) đã đặt cho Đồng Nai những thách thức rất lớn. Trong nhiều năm qua tỉnh đã có nhiều giải pháp tập trung vào việc bảo tồn di sản văn hoá dân tộc.

Điều đó được thể hiện qua việc ban hành hàng loạt các văn bản thi hành, các kế hoạch, các quy hoạch, quy định sau khi Luật Di sản văn hoá được ban hành, điển hình như Chỉ thị số 22/CT.CT.UBT ngày 01/9/2002 của Chủ tịch UBND tỉnh Đồng Nai về việc bảo vệ di sản văn hoá dân tộc trên địa bàn tỉnh; từ tháng 8 năm 2002, Đồng Nai đã ban hành văn bản về việc quy hoạch bảo vệ Di sản văn hoá; tháng 9 năm 2012, tỉnh đã ban hành Quyết định phê duyệt đề án quy hoạch lộ trình xếp hạng di tích- danh thắng trên địa bàn tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2011-2020; …

Tính đến 2012, Đồng Nai có 47 di tích- danh thắng đã được xếp hạng cấp tỉnh và quốc gia. Trong đó có 01 dích được xếp hạng cấp quốc gia đặc biệt, 26 di tích được Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch xếp hạng; 20 di tích được UBND tỉnh xếp hạng và 54 di tích đang trong lộ trình đề nghị xếp hạng trong giai đoạn 2012 - 2020; ngoài ra còn có khoảng 1500 di tích phổ thông, 400 căn nhà gỗ truyền thống, trên 40 ngôi mộ cổ đã được thống kê là một trong những nhóm di tích văn hoá cần được bảo tồn, gìn giữ.

Đi liền với việc bảo tồn các di tích văn hoá, tỉnh đã chú trọng và có nhiều cố gắng đến việc đào tạo bồi dưỡng cán bộ và người trực tiếp quản lý các di tích từ tỉnh đến cơ sở về công tác bảo quản, tu bổ, tôn tạo, phát huy các giá trị văn hoá của di tích, công tác tuyên truyền giới thiệu di tích, công tác vận động xã hội hoá các hoạt động di tích…       

Kinh phí đầu tư vào việc tôn tạo, tu bổ và nâng cấp các di tích được tỉnh đặc biệt quan tâm, từ nguồn vốn ngân sách của tỉnh, nguồn vốn từ chương trình mục tiêu quốc gia, nguồn vốn xã hội hoá, từ năm 2009 đến nay tỉnh đã đầu tư hơn 100 tỷ đồng vào việc bảo tồn và phát huy các giá trị của di tích văn hoá nhằm nâng cao đời sống tinh thần cho người dân.

Cùng với việc đầu tư bảo tồn các di sản văn hoá vật thể, Đồng Nai cũng đã có sự chú trọng đến việc thống kê, trình diễn, giới thiệu, tuyên truyền về các di sản văn hoá phi vật thể tại địa phương thông qua các hoạt động lễ hội giao lưu văn hoá các dân tộc Miền Đông được tổ chức định kỳ và luân phiên trong các tỉnh miền Đông Nam bộ. Tại đây, nhiều điệu múa truyền thống của các dân tộc như: múa đón thần mặt trời của dân tộc Chơro, mừng ngày hội mùa của dân tộc Mạ, múa lễ cầu mưa của dân tộc X’tiêng, điệu múa núi cao của dân tộc Hoa, múa huyền thoại thần khỉ Hanuman cứu nàng Xê-đa của dân tộc Khơ-me, múa trống Baranưng của dân tộc Chăm... được thể hiện với nét đặc thù của từng dân tộc. Một số tác giả, các nhà nghiên cứu văn hoá đã có nhiều tác phẩm giới thiệu các giá trị văn hoá của Đồng Nai như các tác phẩm Biên Hòa - Đồng Nai 300 năm hình thành và phát triển, Bản sắc dân tộc và văn hoá Đồng Nai, Tư liệu xây dựng giáo trình âm nhạc và múa dân tộc Xtiêng ở Đồng Nai, Biên Hoà; Lịch sử Chiến khu Đ, Khảo cổ Đồng Nai, Đồng Nai di tích - lịch sử, văn hóa; Đền Hùng Vương ở Biên Hòa, Người Đồng Nai, Truyện cổ Dân gian Đồng Nai, Người Chơro ở Đồng Nai, xây dựng phim tư liệu về lễ hội cúng đình ở Đồng Nai, thống kê văn hoá phi vật thể ở huyện Nhơn Trạch, lập hồ sơ khoa học nghiên cứu lễ hội Sayangva của dân tộc Chơ ro ở Đồng Nai vào Danh mục di sản văn hoá phi vật thể Quốc gia

 Ở Đồng Nai, rừng tự nhiên đã bị chiến tranh huỷ hoại và khai thác suy kiệt, tuy vậy, đến nay vẫn còn gần 170.000 hecta, chủ yếu trải rộng ở khu vực phía Bắc tỉnh, có vai trò cân bằng môi trường sinh thái và phòng hộ đầu nguồn hồ Trị An, song cũng có tác dụng rất lớn trong việc bảo tồn môi trường sống truyền thống, duy trì và phát triển các giá trị văn hoá của các dân tộc thiểu số sinh sống tại đây.

Mặc dù vậy, so với tiềm năng, bề dày văn hoá truyền thống của vùng đất Đồng Nai những kết quả đã thực hiện được vẫn còn hết sức nhỏ bé, vẫn còn mang tính đơn lẻ chưa tạo ra sự kết nối tổng thể. Việc bảo tồn các di sản văn hoá và phát huy giá trị bản sắc văn hoá với công tác tuyên truyền, giới thiệu, quảng bá về những nét văn hoá đặc sắc của nó vẫn chưa được xây dựng thành chiến lược song hành với chiến lược phát triển kinh tế. Vẫn còn tồn tại quan niệm văn hoá là việc làm kéo theo, đi sau phát triển kinh tế. Văn hoá vẫn chưa trở thành mục tiêu, động lực để thúc đẩy sự phát triển kinh tế- xã hội như một số nước trong khu vực Châu Á đã làm được.   

Việc thông tin tuyên truyền các giá trị văn hoá đến người dân chưa đồng đều giữa các kênh thông tin. Theo kết quả điều tra dư luận xã hội do Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Đồng Nai thực hiện vào tháng 4/2012 với 2500 phiếu phát ra đã chứng minh việc thông tin tuyên truyền văn hoá truyền thống đến người dân vẫn chủ yếu thông qua hệ thống thông tin đại chúng (82,6%); qua sách (34%), qua hệ thống báo cáo viên (19,4%), qua tuyên truyền thông tin lưu động (14,76), qua hệ thống bảo tàng, trưng bày hiện vật, triển lãm (12,64%), qua địa điểm thực địa di tích lịch sử, văn hóa (16,96%), qua nói chuyện truyền thống, họp mặt kỷ niệm (21,92%), qua hệ thống tuyên truyền băng rôn, bảng hiệu, cờ, khung cảnh (24,08%), qua sinh hoạt văn hóa tập thể (19,72%). Việc này tạo ra sự không đồng đều trong cơ hội tiếp xúc của các tầng lớp dân cư. Một số các kênh thông tin gây ấn tượng mạnh và để lại tri thức rộng, sâu, lâu góp phần tạo nên tố chất mỗi con người như sách, sinh hoạt văn hoá tập thể hay địa điểm thực địa di tích lịch sử… lại rất ít người được tiếp nhận.

Từ thực tiễn của Đồng Nai nằm trong xu thế phát triển chung của đất nước, để tiếp tục đẩy mạnh việc bảo tồn và phát huy những giá trị văn hoá dân tộc hướng đến mục tiêu phát triển bền vững trong tương lai xin góp một vài kiến nghị nho nhỏ sau:

1/ Cần xây dựng một chiến lược tổng thể trong xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc gắn với chiến lược phát triển kinh tế có tầm nhìn 30-50 năm. Từ đó, các tỉnh, thành, bộ, ngành, các cơ quan, đơn vị, địa phương xây dựng những kế hoạch cụ thể thực hiện bao gồm tất các các nội dung đã được xác định, trong đó cần nhấn mạnh việc xác định các giá trị văn hoá chung và giá trị văn hoá của vùng, miền, dân tộc. Việc làm này hết sức quan trọng giúp cho công tác tư tưởng, các cơ quan truyền thông, ngành giáo dục, văn hoá xác định những chuẩn trong hoạt động.

2/ Sự kết nối song hành giữa mục tiêu phát triển kinh tế với bảo tồn và phát huy những giá trị văn hoá cần được thực hiện cụ thể hoá, thông qua các chương trình, mục tiêu phát triển gắn với lộ trình từng giai đoạn, nhằm hướng đến việc phát triển đồng đều giữa: kinh tế, văn hoá và môi trường. Đảm bảo trong mỗi chương trình hoạt động hàng năm của các địa phương có các mục tiêu thực hiện việc bảo tồn và phát huy những giá trị văn hoá cụ thể. Đồng thời cần tiếp tục xây dựng các quy định xử lý khi xảy ra mâu thuẫn giữa các lợi ích trái chiều nhau theo hướng ưu tiên bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống dân tộc.

3/ Bảo tồn các di sản văn hoá vật thể đi liền với phát huy các giá trị văn hoá phi vật thể để tiếp tục củng cố, trau dồi, vun đắp, trao truyền những giá trị sống của truyền thống văn hoá dân tộc. Tăng cường và bổ sung những kiến thức về các giá trị văn hoá truyền thống dân tộc trong các nội dung giảng dạy của nhà trường các cấp học, phù hợp đặc điểm tâm sinh lý với lứa tuổi học sinh, sinh viên, theo hướng “thẩm thấu” một cách tự nhiên, đa dạng hoá các hình thức, không áp đặt nặng nề.     

4/ Việt Nam gia nhập WTO, đồng thời với việc tăng mức độ xung đột, giao lưu, tiếp biến giữa các giá trị văn hoá truyền thống với các giá trị văn hoá của các nước, các dân tộc khác trên thế giới, và cả với các tạp phẩm phi văn hoá khác. Do đó, việc bồi dưỡng các giá trị văn hoá cụ thể cho từng đối tượng trong xã hội cần có ngay các biện pháp quyết liệt. Điều này một mặt nhằm bảo tồn các giá trị văn hoá truyền thống dân tộc, đồng thời xác định các giá trị văn hoá mới giúp cho người dân, nhất là thế hệ trẻ nâng cao nhận thức, tiếp nhận và chuyển hoá các giá trị văn hoá, nâng tầm các giá trị văn hoá truyền thống, là cơ sở đấu tranh loại trừ các tạp phẩm phi văn hoá du nhập.

5/ Đưa tiêu chí bảo vệ rừng, trồng rừng, bảo vệ tầng sinh quyển trở thành tiêu chí đánh giá mức độ, tầm văn hoá của mỗi quốc gia, dân tộc, địa phương. Đa số các dân tộc thiểu số của Việt Nam đều gắn môi trường sống, sinh hoạt văn hoá, duy trì, trao truyền các giá trị văn hoá gắn với rừng. Do đó bảo vệ và mở rộng diện tích rừng là góp phần không nhỏ đến bảo tồn văn hoá truyền thống dân tộc.

6/ Bên cạnh bảo tồn, phát huy các giá trị văn hoá các di tích đã được phát hiện, cần tiếp tục xây dựng, bảo tồn, trao truyền, vun đắp các giá trị mới đang hình thành và phát triển trong xã hội hiện nay cho thế hệ mai sau. Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá hướng đến phát triển bền vững không những cần có sự kết hợp cả 3 yếu tố kinh tế, văn hoá và môi trường, mà còn phải phải cân nhắc đảm bảo sự bền vững của hiện tại và tương lai. 

TS. Huỳnh Văn Tới - Th.S Lê Thị Cát Hoa

 

 

Tin xem nhiều