Chiến tranh vệ quốc đã qua, đất nước thống nhất hòa bình được gần một nửa thế kỷ, song những vết thương mà bom đạn gây ra trên dải đất chữ S vẫn chưa hẳn chữa lành. Cảm thức chiến tranh còn hiện hữu trong tâm trí nhiều người dân đất Việt, nhất là những người lính trực tiếp cầm súng chiến đấu.
Lời ru những cánh thư tình trong chiến tranh
Ngủ đi, những nỗi niềm xanh
bao nhiêu hy vọng mong manh đợi chờ
người còn hẹn tự ngày xưa
trái tim thơ dại đến giờ vẫn yêu
Ngủ đi, trời đã nghiêng chiều
người đi khuất núi khuất đèo vẫn đi
kẻ về nương bóng từ bi
kệ kinh ru dỗ một thì xuân tươi
Ngủ đi, mỏng mảnh kiếp người
ngày đi phơi phới hai mươi tuổi đầy
ngày về chống chếnh bàn tay
người thương ngã dưới luống cày
quê hương
Ngủ đi, bom đạn chiến trường
đã không nát được mảnh gương
giữa rằm
mà hồn đá vẫn lặng câm
bơ vơ một khúc ru thầm sau mưa…
Ngủ đi, mùa đã qua mùa
nhớ thương đã lỡ nhịp chờ sang sông
gửi hồn vào cõi mênh mông
tơ vương mấy kiếp bão bùng tìm nhau.
Đàm Chu Văn
* Nỗi đau chiến tranh và tình yêu lứa đôi
Chiến tranh vệ quốc đã qua, đất nước thống nhất hòa bình được gần một nửa thế kỷ, song những vết thương mà bom đạn gây ra trên dải đất chữ S vẫn chưa hẳn chữa lành. Cảm thức chiến tranh còn hiện hữu trong tâm trí nhiều người dân đất Việt, nhất là những người lính trực tiếp cầm súng chiến đấu. Bởi vậy mà thơ của người lính tạo nên những rung động đặc biệt nơi độc giả, trước hết, vì tính chân thực của góc nhìn, độ sâu đậm của tình cảm, cảm xúc.
Bài thơ Lời ru những cánh thư tình trong chiến tranh của nhà thơ mặc áo lính Đàm Chu Văn, được viết giữa thời bình, đã khiến tôi rưng rưng xúc động khi cảm nhận về nỗi đau chiến tranh và tình yêu lứa đôi, tình đồng chí, đồng bào.
Bài thơ không phục dựng nỗi đau chiến tranh bằng tiếng đạn bom, cảnh thương vong nơi trận mạc mà bằng diện mạo khác. Đó là những cuộc chia ly, người ra đi “khuất núi khuất đèo” nối nhau lớp lớp, người ở lại ngóng trông đến khắc khoải và có ai đó phải “nương bóng từ bi” mượn lời kinh kệ để “ru dỗ một thì xuân tươi” dần trôi sang quãng muộn màng. Đó là những điều tưởng như mâu thuẫn: “ngày đi phơi phới hai mươi tuổi đầy” mà “ngày về chống chếnh bàn tay”, chứng kiến “người thương ngã dưới luống cày quê hương”.
Nhưng, từ trong khốc liệt chiến tranh đã hiện lên một chân dung khác - chân dung của tình người. Đó là vẻ đẹp và sự cao quý của tình yêu tuổi trẻ ban sơ mà son sắt, tình đồng chí, đồng bào chân chất mà đậm sâu.
Tình yêu trong thời chiến được biểu hiện qua những bức thư tình. Đọc nhan đề bài thơ, tôi tự hỏi, tại sao lại là “cánh thư” mà không phải là “bức thư, lá thư”? Và tôi chợt liên tưởng tới những cánh cò của vùng châu thổ sông Hồng quê anh, quê tôi: thanh thoát, bay bổng giữa đồng ruộng yên bình mà rất đỗi can trường trong dông bão!
Thời chiến tranh, cánh thư là phương tiện kết nối riêng tư hiếm hoi hoặc duy nhất, giữa những đôi lứa ở tiền tuyến và hâu phương, mặt trận này với mặt trận khác. Nó có thể trải chuyến đi lâu hàng tháng trời, có thể nhòe nước mưa, mồ hôi hay nước mắt, có thể nhăn nhàu lấm lem đất cát, thậm chí thấm máu của người lính quân bưu trên hành trình đưa thư gian khổ và hiểm nguy để đến tận tay những người con trai, con gái đang yêu, hay đã nên vợ nên chồng. Từ lá thư cụ thể, nhà thơ Đàm Chu Văn đã nâng thành hình tượng tình yêu thời chiến. Đó là sự đợi chờ đến khắc khoải mà vẫn nguyên vẹn niềm yêu thuở ban sơ: “Người còn hẹn tự ngày xưa/ Trái tim thơ dại đến giờ vẫn yêu”. Đó là sức mạnh vượt lên trên tàn khốc của đạn nổ bom rơi để giữ trọn tình yêu sáng trong, sắt son bền vững: “Ngủ đi, bom đạn chiến trường/ đã không nát được mảnh gương giữa rằm”. Và khi đất nước hòa bình thì những trái tim yêu vẫn không ngừng phát sóng tìm nhau, dù có thể đó là cuộc kiếm tìm trong muôn trùng vô định: “Gửi hồn vào cõi mênh mông/ Tơ vương mấy kiếp bão bùng tìm nhau”.
Tôi được biết, Lời ru những cánh thư tình trong chiến tranh là bài mở đầu tập thơ Giấc rừng của nhà thơ Đàm Chu Văn (tập thơ đoạt giải thưởng Văn học nghệ thuật của Bộ Quốc phòng 5 năm 2009-2014). Trong Giấc rừng có tới 1/4 số bài viết về ký ức đời lính. Thì đây, Lời ru những cánh thư tình trong chiến tranh không chỉ tái hiện tình yêu thời chiến, mà còn bộc lộ thái độ, tình cảm của một người lính đã trải qua chiến trường khốc liệt, may mắn trở về sống giữa thời bình. Bài thơ được viết theo thể lục bát gần gũi với ca dao. Cấu trúc bài gồm 5 đoạn thơ, mỗi đoạn đều được bắt đầu bằng cụm từ “Ngủ đi”, như là 5 khúc ru thấm đẫm yêu thương không chỉ của riêng nhà thơ, mà còn là tiếng yêu thương của đồng đội, đồng bào anh, dành cho những mối tình trong chiến tranh, cho người đã khuất và cả người còn sống. Âm điệu thơ thiết tha, xoa dịu nỗi đau, không gian thơ tĩnh lặng mà ở đó những thân phận mất mát, tổn thương bởi chiến tranh được đón nhận, cảm thông, trân trọng và sẻ chia!
2 câu cuối của bài thơ cứ trở đi, trở lại trong tâm trí tôi, gợi nhiều suy cảm:
“Gửi hồn vào cõi mênh mông
Tơ vương mấy kiếp bão bùng tìm nhau”
Có lẽ, đó không chỉ là những tâm hồn của đôi lứa yêu nhau khát khao tan hòa vào trời đất để được trùng phùng ở một thế giới màu nhiệm. Đó còn là tiếng vọng tâm linh, là ước nguyện của người đang sống hôm nay hướng về người đã khuất. Những bàn chân của người thân, của đồng chí, đồng bào vẫn đang lội suối băng rừng lần hồi tìm dấu vết người ra đi mà chưa thể trở về! Bài thơ neo lại tâm trí tôi câu hỏi: Mỗi chúng ta có thể làm gì để những hy sinh mất mát quý giá của các thế hệ cha anh không vô nghĩa, để những giá trị cao đẹp của dân tộc được trao truyền tiếp nối mãi cho thế hệ mai sau?
Hà Phi Phượng