Báo Đồng Nai điện tử

Những đột phá trong văn kiện trình Đại hội XIV Đảng

Chi bộ Phòng Kiểm toán ngân sách 2 - Kiểm toán Nhà nước khu vực XII
11:44, 12/11/2025

(ĐN) - Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và cả dân tộc Việt Nam, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Trải qua các kỳ đại hội, Đảng ta đã không ngừng bổ sung, phát triển và hoàn thiện đường lối, cương lĩnh, khẳng định trí tuệ, bản lĩnh và tầm nhìn chiến lược, đưa đất nước vượt qua muôn vàn khó khăn, đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.

Bước vào giai đoạn phát triển mới, trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ trên toàn cầu, Đảng ta đã sớm xác định cơ cấu lại nền kinh tế, xác lập mô hình tăng trưởng mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, lấy khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo (ĐMST) và chuyển đổi số làm động lực chính của sự phát triển.

Tại Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Đảng ta đã xác định mục tiêu đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, với nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ Đại hội XIII đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, ĐMST, nhất là những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Kiểm toán Nhà nước khu vực XII tuyên truyền, quán triệt và triển khai hiệu quả các nghị quyết của Đảng. Ảnh: Phòng Kiểm toán ngân sách 2
Kiểm toán Nhà nước khu vực XII tuyên truyền, quán triệt và triển khai hiệu quả các nghị quyết của Đảng. Ảnh: Phòng Kiểm toán ngân sách 2

Trên cơ sở mục tiêu và nhiệm vụ đề ra, Đảng và Nhà nước đã ban hành và thực hiện nhiều cơ chế, chính sách đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, ĐMST, thu hút nhiều thành phần kinh tế và nhiều đối tượng trong và ngoài nước tham gia. Tại Dự thảo Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng, Ban Chấp hành Trung ương đã đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, trong đó cơ cấu lại nền kinh tế, xác lập mô hình tăng trưởng mới với trọng tâm là nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, giá trị gia tăng và sức cạnh tranh của nền kinh tế, lấy khoa học công nghệ, ĐMST và chuyển đổi số làm động lực chính; tạo ra sức sản xuất mới, phương thức, lĩnh vực sản xuất kinh doanh mới và chất lượng mới.

Đẩy mạnh chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, chuyển đổi năng lượng gắn với phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Hình thành các cực tăng trưởng mạnh, các vùng kinh tế trọng điểm, các đô thị kết nối hàng hóa lớn, nối khu vực và toàn cầu. Tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại đầu tư công, doanh nghiệp nhà nước và các tổ chức tín dụng. Cơ cấu lại chi ngân sách nhà nước, tăng chi cho đầu tư phát triển, tập trung vào các ngành, lĩnh vực ưu tiên; tạo đột phá mạnh về cơ chế, chính sách nâng cao chất lượng, hiệu quả đầu tư công.

Đổi mới doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là đổi mới quản trị theo các chuẩn mực quốc tế, tăng cường hiệu quả và vai trò dẫn dắt của doanh nghiệp nhà nước. Hiện đại hóa hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng; đẩy mạnh việc xử lý các tổ chức tín dụng yếu kém, sở hữu chéo, nâng cao chất lượng, hiệu quả tín dụng, giữ vững ổn định, an toàn hệ thống. Thực hành chính sách tài khóa mở rộng, có trọng tâm, trọng điểm và chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, hiệu quả, hướng vào phát triển sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Tăng cường công tác giám sát, kiểm tra, kiểm soát hoạt động tài chính, ngân hàng, tín dụng.

Qua việc đánh giá kết quả thực hiện, tại Dự thảo Báo cáo chính trị, Ban Chấp hành Trung ương đã rút ra bài học kinh nghiệm qua 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII đó là:

Một là, giữ vững nguyên tắc lãnh đạo của Đảng, thống nhất nhận thức, bám sát thực tiễn, có tầm nhìn chiến lược, tư duy đột phá, đề ra những chủ trương, quyết sách đúng đắn, kịp thời, linh hoạt, sáng tạo, ứng phó với mọi tình huống để ổn định và phát triển.

Hai là, bảo đảm sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng và hệ thống chính trị, sự đồng thuận của nhân dân, tranh thủ sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế, phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước để tận dụng mọi thời cơ thuận lợi, vượt qua mọi khó khăn, thách thức, kiên quyết thực hiện thắng lợi cho bằng được các mục tiêu phát triển.

Ba là, tổ chức thực hiện quyết liệt các chủ trương, quyết sách của Đảng với tư duy, cách làm mới: Trong Đảng trước, Trung ương trước, địa phương sau, bảo đảm vai trò quyết định của cấp ủy đảng và người đứng đầu; gắn tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận với định hướng xây dựng, tổ chức thực hiện quyết liệt chủ trương, đường lối, chính sách.

Trong giai đoạn mới, tại Dự thảo Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Đảng ta đã xác định: Cơ cấu lại nền kinh tế, xác lập mô hình tăng trưởng mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, lấy khoa học công nghệ, ĐMST và chuyển đổi số làm động lực chính.

Tập trung phát triển một số ngành công nghiệp chiến lược, công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp kết nối; hiện đại hóa bằng công nghệ mới một số ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động. Phát triển công nghiệp phục vụ nông nghiệp; công nghiệp phục vụ quốc phòng, an ninh; công nghiệp hỗ trợ; công nghiệp xây dựng hiện đại, công nghệ sản xuất vật liệu mới; công nghiệp văn hóa, kinh tế di sản; một số cụm liên kết ngành công nghiệp quan trọng trên phạm vi vùng và liên vùng.

Tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới phương thức hoạt động, nâng cao năng lực tự chủ của các đơn vị sự nghiệp công lập, nhất là trong lĩnh vực khoa học công nghệ, giáo dục, y tế, văn hóa. Đẩy mạnh xã hội hóa trong cung cấp dịch vụ công.

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng xanh, sinh thái, tuần hoàn, theo chuỗi giá trị. Đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ, chuyển đổi số trong nông nghiệp; phát triển các vùng sản xuất hàng hóa lớn, giá trị gia tăng cao, gắn với xây dựng thương hiệu sản phẩm; phát triển các hình thức tổ chức và liên kết sản xuất kinh doanh trong nông nghiệp và nông thôn; mở rộng thị trường xuất khẩu nông sản, xây dựng các chuỗi liên kết tiêu thụ sản phẩm.

Nâng cao chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh của các ngành dịch vụ. Phát triển các loại hình dịch vụ mới, dịch vụ kết nối có giá trị gia tăng cao, có lợi thế. Phát triển các dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán, tài sản số, dịch vụ thương mại, dịch vụ vận tải, logistics... Đẩy mạnh xã hội hóa để phát triển các dịch vụ văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ, y tế, thể thao, dịch vụ việc làm...

Xây dựng, phát triển thương hiệu quốc gia về du lịch mang đậm bản sắc văn hóa, con người Việt Nam.

Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị hóa. Giải quyết tốt mối quan hệ giữa tự chủ sản xuất trong nước với việc tham gia vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu, xây dựng và hiện đại hóa nền công nghiệp quốc gia vững mạnh, lấy khoa học công nghệ và ĐMST làm động lực chính, lấy hội nhập quốc tế làm phương thức để huy động mọi nguồn lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn bền vững; phát triển các hình thức tổ chức sản xuất hiện đại trong nông nghiệp; gắn kết chặt chẽ giữa phát triển công nghiệp, dịch vụ với nông nghiệp; phát triển kinh tế nông nghiệp, kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới. Tập trung xây dựng đồng bộ hệ thống kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn.

Xây dựng thương hiệu quốc gia về một số sản phẩm dịch vụ. Xây dựng và phát triển một số trung tâm dịch vụ, du lịch chất lượng cao; một số trung tâm tài chính quốc tế. Thúc đẩy thương mại dịch vụ xuyên biên giới. Xây dựng các trung tâm logistics lớn gắn với các cảng biển, cảng hàng không trung chuyển quốc tế, các cửa khẩu quốc tế lớn, hiện đại, tự động hóa cao.

Phát triển mạnh các ngành kinh tế biển, gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh. Phát triển đồng bộ các khu kinh tế, khu công nghiệp, khu đô thị sinh thái, chuỗi đô thị, hành lang giao thông đường bộ ven biển... Xây dựng các trung tâm hậu cần nghề cá lớn gắn với ngư trường trọng điểm; phát triển nuôi trồng hải sản trên biển quy mô lớn, công nghệ cao. Xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ trên một số đảo trọng điểm, chiến lược.

Phát huy đầy đủ chức năng, vai trò của các khu vực kinh tế. Phát triển kinh tế nhà nước thật sự giữ vai trò chủ đạo trong việc bảo đảm các cân đối lớn, định hướng chiến lược, dẫn dắt nền kinh tế; phát triển kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia; kinh tế hợp tác, kinh tế tập thể, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài và các loại hình kinh tế khác giữ vai trò quan trọng.

Xây dựng một số tập đoàn kinh tế, doanh nghiệp nhà nước quy mô lớn, hoạt động hiệu quả, có năng lực cạnh tranh quốc tế, đóng vai trò trụ cột, tiên phong trong một số lĩnh vực quan trọng như năng lượng, công nghệ thông tin, viễn thông, công nghiệp chế tạo, tài chính - ngân hàng, kết cấu hạ tầng.

Tạo môi trường thuận lợi để doanh nghiệp tư nhân tiếp cận bình đẳng và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực; mở rộng sản xuất, kinh doanh, đa dạng hóa thị trường, tái cơ cấu mặt hàng, xây dựng và phát triển thương hiệu, nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ, ĐMST, thu hút các nhà đầu tư chiến lược vào khu vực nông nghiệp, nông thôn. Chú trọng phát triển các tập đoàn tư nhân Việt Nam lớn, mạnh, có tầm chiến lược. Hỗ trợ tích cực các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tạo môi trường thuận lợi để kinh tế hợp tác, kinh tế tập thể, hộ nông nghiệp và phi nông nghiệp tiếp cận đất đai, vốn, công nghệ, thị trường. Phát triển các làng nghề gắn với phát huy các giá trị văn hóa và bảo vệ môi trường.

Thu hút có chọn lọc các dự án đầu tư nước ngoài; tập trung chủ yếu cho phát triển các ngành công nghiệp công nghệ cao. Thúc đẩy kết nối khu vực FDI với khu vực kinh tế trong nước, thực hiện có hiệu quả quá trình chuyển giao công nghệ, kỹ năng quản lý và đào tạo nguồn nhân lực; hình thành hệ sinh thái và tăng cường chuỗi liên kết giữa doanh nghiệp FDI với các doanh nghiệp trong nước.

Đẩy mạnh liên kết vùng, mở rộng và cơ cấu lại không gian phát triển phù hợp với hệ thống hành chính mới. Đổi mới tư duy từ quản lý sang quản trị phát triển vùng; xây dựng bộ tiêu chí phát triển vùng, liên vùng phù hợp với tiềm năng, lợi thế và điều kiện cụ thể của từng địa phương và vùng.

Tăng cường xây dựng và phát triển đồng bộ, chất lượng cao hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông đa phương thức, hạ tầng kinh tế - xã hội. Phát huy vai trò của các vùng động lực quốc gia, các hành lang kinh tế, các đô thị lớn, các trung tâm kinh tế. Hoàn thiện cơ chế, chính sách điều phối và quản lý phát triển vùng.

Trong giai đoạn hiện nay, Đảng và Nhà nước đang tích cực sắp xếp, hoàn thiện bộ máy quản lý nhà nước tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, hoàn thiện các thể chế chính sách, đẩy mạnh xây dựng cơ sở hạ tầng, chuẩn bị những điều kiện thích hợp cho việc cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, giá trị gia tăng và sức cạnh tranh; xác lập mô hình tăng trưởng mới, trong đó tập trung vào một số ngành công nghiệp chiến lược, công nghiệp nền tảng, công nghiệp mũi nhọn; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, lấy khoa học công nghệ, ĐMST là trọng tâm và động lực để phát triển nhanh và bền vững đất nước.

Việc xác định cơ cấu lại nền kinh tế, xác lập mô hình tăng trưởng mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, lấy khoa học công nghệ, ĐMST và chuyển đổi số làm động lực chính; đột phá phát triển khoa học công nghệ, ĐMST và chuyển đổi số quốc gia tại Dự thảo Văn kiện trình Đại hội XIV cho thấy, Đảng ta đã vận dụng phù hợp và sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, thành tựu khoa học công nghệ của nhân loại vào thực tiễn nhiệm vụ xây dựng và phát triển đất nước trong nhiệm kỳ 2026-2030, nhằm thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển đất nước, đưa nước ta từng bước tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Đây không chỉ là sự kế thừa mà còn là bước phát triển vượt bậc về tư duy lãnh đạo của Đảng, thể hiện khát vọng đưa đất nước bứt phá vươn lên.

Chi bộ Phòng Kiểm toán ngân sách 2 - Kiểm toán Nhà nước khu vực XII