Cũng như nhiều quốc gia trên thế giới, ở Việt Nam bảo hiểm xã hội (BHXH), bảo hiểm y tế (BHYT) là chính sách trụ cột trong hệ thống chính sách an sinh xã hội.
Cũng như nhiều quốc gia trên thế giới, ở Việt Nam bảo hiểm xã hội (BHXH), bảo hiểm y tế (BHYT) là chính sách trụ cột trong hệ thống chính sách an sinh xã hội. Xem con người là tài sản quý nhất, hiện nay chính sách BHXH, BHYT đang được tiếp tục được sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện, nhằm tạo dựng một cơ chế tài chính, một mạng lưới an sinh xã hội thiết yếu, chia sẻ rủi ro, giảm thiểu gánh nặng chi trả cho người bệnh; đồng thời tạo nguồn lực quan trọng để chăm sóc sức khỏe cho người dân, bảo đảm cho người lao động có thể giải quyết, khắc phục những rủi ro trong cuộc sống.
Từ ngày 1-7, Nghị định 37/2016/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật An toàn vệ sinh lao động về bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp bắt buộc được thực hiện. Theo đó, chủ sử dụng lao động phải đóng 1% trên quỹ tiền lương tháng của người lao động vào Quỹ Bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp cho người lao động. Và quỹ này sẽ chi trả theo quy định, nhằm bảo đảm đời sống cho người lao động khi bị suy giảm, mất sức lao động hoặc tử vong bởi tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp. Điều đáng nói hơn, quy định này không chỉ thực hiện đối với những đối tượng lao động làm việc có hợp đồng dài hạn, ổn định ở những doanh nghiệp lớn mà còn mở rộng ra nhiều đối tượng lao động khác, như: lao động thời vụ, lao động dưới 15 tuổi, lao động có hợp đồng ít nhất 3 tháng… Thậm chí là cả những lao động đã chuyển việc, thôi việc hoặc đã nghỉ hưu, nếu phát hiện ra bệnh nghề nghiệp do yếu tố tác hại của nghề cũ gây nên cũng có thể được xem xét hưởng phúc lợi từ Quỹ Bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.
Đây là một ưu việt rất lớn trong chính sách BHXH, BHYT. Trước đây, người lao động rủi ro bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp tuy cũng được hưởng các chính sách về chăm sóc y tế, thăm hỏi, động viên, hỗ trợ của Nhà nước, doanh nghiệp, các đoàn thể và cộng đồng. Thế nhưng, để người lao động được hỗ trợ một cách đầy đủ, thích đáng so với tỷ lệ thương tật họ phải gánh chịu thì có quá nhiều điều phụ thuộc vào người sử dụng lao động, mà không phải chủ doanh nghiệp nào cũng thực lòng muốn dành sự chăm sóc tốt cho người lao động khi họ gặp rủi ro. Trong khi đó, những hỗ trợ, thăm hỏi, động viên bằng vật chất, tinh thần của đoàn thể, cộng đồng thường không thấm vào đâu, cũng như không phải lúc nào cũng kịp thời đối với các nạn nhân… Không ít gia đình đã bị khánh kiệt khi có người bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, suy sụp khi có người thân tử nạn, bị bệnh nặng không thể tiếp tục tham gia lao động - nghĩa là gia đình đó sẽ phải gánh một gánh rất nặng khi mất đi nhân lực, việc làm, thu nhập và những tốn kém trong quá trình điều trị.
Là một tỉnh công nghiệp với hơn 1 triệu lao động đang làm việc, Đồng Nai cũng là địa phương có số vụ tai nạn lao động nhiều nhất cả nước. Theo thống kê của Bộ Lao động - thương binh và xã hội, năm 2015 Đồng Nai xảy ra 2.230 vụ tai nạn lao động với 2.240 người bị nạn, trong đó 29 người tử vong và 168 người bị thương nặng, chưa kể hàng ngàn lao động khác đang và có nguy cơ mắc các bệnh nghề nghiệp. Vì thế, khi chính sách bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp cho người lao động được triển khai, đồng nghĩa với việc hàng ngàn người lao động với tỷ lệ thương tật từ 5% trở lên sẽ được hưởng quyền lợi từ Quỹ Bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp. Họ sẽ có cơ hội để nhận được tiền hỗ trợ, tiền trợ cấp một lần hoặc hàng tháng một cách đầy đủ, phù hợp với tỷ lệ thương tật của mình trên mức lương, mức đóng và thời gian đóng BHXH. Vì vậy, dù có tiếp tục làm việc hay nghỉ việc để điều trị bệnh, thì thu nhập căn bản của người lao động vẫn sẽ được bảo đảm. Và như thế, người lao động đó vốn không may mắn giờ đây có quyền hy vọng được hưởng một cuộc sống - dù không bằng so với trước khi bị tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp - nhưng cũng có thể gọi là tạm an ủi và giúp được họ trong những thời khắc khó khăn nhất.
PHƯƠNG LIỄU