Sáng về tốc độ tăng trưởng; sáng trong giữ vững môi trường ổn định; sáng trong phòng chống tiêu cực, tham nhũng... đây là đánh giá của đại biểu Nguyễn Bắc Việt (Ninh Thuận) khi phân tích về những điểm sáng của đất nước trong phiên thảo luận tại hội trường... sáng 31/10.
Sáng về tốc độ tăng trưởng; sáng trong giữ vững môi trường ổn định; sáng trong phòng chống tiêu cực, tham nhũng... đây là đánh giá của đại biểu Nguyễn Bắc Việt (Ninh Thuận) khi phân tích về những điểm sáng của đất nước trong phiên thảo luận tại hội trường về kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội và ngân sách nhà nước năm 2017; kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội, dự toán ngân sách nhà nước, phương án phân bổ ngân sách trung ương năm 2018 và kế hoạch tài chính-ngân sách nhà nước 3 năm quốc gia 2018-2020, sáng 31/10.
Nội dung thảo luận này được Quốc hội tiến hành trong 2,5 ngày, trong quá trình thảo luận, thành viên Chính phủ sẽ phát biểu giải trình, làm rõ một số vấn đề đại biểu Quốc hội nêu.
Tăng trưởng đang có bất hợp lý
Nhìn về bức tranh kinh tế-xã hội những tháng đầu năm và dự báo cả năm 2017 với những điểm sáng nổi bật, dự kiến sẽ đạt và vượt 13 chỉ tiêu đề ra, các đại biểu Nguyễn Đắc Quỳnh (Sơn La), Tống Thanh Bình (Lai Châu), Nguyễn Thanh Hải (Tiền Giang)… đánh giá cao quyết tâm trong lãnh đạo, điều hành của Quốc hội, của Chính phủ, của cả hệ thống chính trị và nhân dân cả nước, quyết tâm đưa Nghị quyết Đại hội XII của Đảng vào cuộc sống.
Tuy nhiên, vẫn còn không ít ý kiến băn khoăn khi tăng trưởng đang có những bất hợp lý, trái với logic thông thường, GDP “rơi tự do” trong những tháng đầu năm và tăng tốc “thần kỳ” những tháng cuối năm. Trong điều kiện nguồn lực hạn hẹp, phần lớn là tiền vay nhưng phân bổ vốn chi đầu tư phát triển dàn trải, các ưu tiên trong mục tiêu phát triển cơ cấu lại nền kinh tế bố trí chậm và không đủ vốn. Ngân sách trung ương hạn hẹp, khó khăn trong bố trí cho các công trình dự án quan trọng.
Nhìn về các bất cập, đại biểu Hoàng Quang Hàm (Phú Thọ) cho biết, kỳ họp này sẽ thông qua báo cáo khả thi của Dự án Cảng hàng không quốc tế Long Thành, chủ trương đầu tư cao tốc Bắc Nam nhưng không bố trí vốn cho kế hoạch năm 2018, không để dành vốn năm 2018, để chờ quyết định của Quốc hội sẽ phân bổ sau nên không có nguồn tiền để triển khai các dự án này trong năm tới. Cùng với đó là hai chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới và giảm nghèo bền vững, trong 3 năm Trung ương chỉ bố trí được 36% tổng mức đầu tư tối thiểu được phê duyệt trong 5 năm nên khó đạt được mục tiêu. Với tốc độ bố trí vốn như hiện nay, việc đạt mục tiêu cơ cấu lại nền kinh tế khó đảm bảo, nhiều chính sách phát triển đồng bào dân tộc miền núi bố trí không đủ vốn hoặc không bố trí được vốn.
Bên cạnh đó, ngân sách Trung ương hạn hẹp, năm 2015-2016 đều hụt thu, khó khăn trong bố trí cho các công trình dự án quan trọng nhưng hỗ trợ đầu tư cho địa phương dàn trải, vượt quy định của Luật Ngân sách nhà nước, theo quy định là không quá 30% nhưng dự toán năm 2018 bố trí tới 46,29%. Các vấn đề trên Chính phủ cần nhìn nhận nghiêm túc có giải pháp khắc phục nếu muốn đạt các mục tiêu phát triển.
Đại biểu Hoàng Quang Hàm đã chỉ ra thực trạng bội chi cao, nợ công sát trần, thu ngân sách dự báo không đạt kế hoạch trung hạn nhưng kỷ luật tài khóa chưa nghiêm. Nợ công dự báo đến 2020 khoảng 4,2 triệu tỷ đồng, trả lãi vay hàng năm chiếm khoảng 7-8% tổng chi ngân sách nhà nước, bình quân 1 năm trả lại hơn 100.000 tỷ đồng, xấp xỉ nửa số tiền bán vốn nhà nước trong 5 năm. Khả năng trả nợ rất khó khăn, ngân sách Trung ương nhiều năm không có thặng dư để trả nợ mà phải vay đảo nợ làm quy mô nợ tăng nhanh, nợ chồng lên nợ. Dự báo đến năm 2020 vẫn không khắc phục được, nguồn trả nợ vẫn từ nguồn vay mới và lên tới 252 ngàn tỷ đồng.
Nỗi lo âm ỉ giữa đầu tư nước ngoài và tăng trưởng
Đại biểu Phạm Trọng Nhân (Bình Dương) băn khoăn với nỗi lo về đầu tư nước ngoài (FDI) khi trong những ngày qua, thông tin về kết quả tăng trưởng của nền kinh tế mà báo cáo Chính phủ trình bày gây ngạc nhiên cho cộng đồng, đặc biệt là cộng đồng doanh nghiệp trong nước vốn vẫn đang cố tìm những hướng đi cho mình. Con số hơn 25 tỷ USD vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vượt xa kỳ vọng, tăng 34,3% và vốn giải ngân cũng bất ngờ tăng mạnh, vượt 13,4% so với cùng kỳ.
“Đây được cho là nguyên nhân góp phần vực dậy tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế. Thế nhưng sau cơn địa chấn về thu hút FDI lại là nỗi lo âm ỉ của không ít nhà quản lý, các chuyên gia về câu chuyện giữa nhà đầu tư, giữa đầu tư nước ngoài và tăng trưởng. Một khi hoàn thành các chỉ tiêu quan trọng, đạt nhiều kỷ lục trong tăng trưởng nhưng hiệu quả nội tại mang lại cho nền kinh tế và đời sống người dân chưa đáng là bao,” đại biểu Nhân lo ngại.
Theo đại biểu, đột ngột giảm rồi đột ngột tăng GDP của cả quốc gia chỉ vì biến động sản phẩm của một vài doanh nghiệp FDI là rất đáng lo ngại cho nền kinh tế. FDI bổ sung nguồn lực quan trọng cho tăng trưởng, sau 25 năm, khu vực này đã đóng góp cho GDP từ 2% (1992) lên 20% (2016) và giải quyết việc làm cho hơn 2 triệu lao động, góp phần nâng thu nhập bình quân đầu người hơn 2.000 USD. Tuy nhiên, dù chiếm 25% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, hơn 70% tổng kim ngạch xuất khẩu và 50% giá trị sản xuất công nghiệp nhưng khu vực này chỉ đóng góp vào ngân sách 15%-19%, thấp nhất trong 3 khu vực.
Phân tích của đại biểu Phạm Trọng Nhân cho thấy, giai đoạn 2007-2015, cả nước có 50% doanh nghiệp FDI kê khai lỗ, trong đó có nhiều doanh nghiệp thua lỗ liên tục trong nhiều năm liền. Tuy nhiên, điều ngược đời là càng lỗ, doanh nghiệp FDI lại càng mở rộng sản xuất. Thống kê trong 1.000 doanh nghiệp nộp thuế thu nhập doanh nghiệp nhiều nhất Việt Nam năm 2015 được công bố cho thấy một nghịch lý là khối doanh nghiệp FDI xuất hiện nhiều nhất: 46% nhưng tỷ lệ góp vào tổng thuế thu nhập doanh nghiệp của toàn bảng chỉ ở mức 37% và đang có xu hướng giảm dần. Theo ước tính của các chuyên gia Oxfam, mỗi năm Việt Nam thất thu 170 tỷ USD do hoạt động chuyển giá.
Ở góc nhìn khác, đại biểu Phạm Trọng Nhân phân tích chỉ tiêu tăng trưởng tổng hợp từ nhiều yếu tố trong đó có tổng kim ngạch xuất khẩu nhưng con số 70% tổng kim ngạch xuất khẩu FDI giúp Việt Nam tăng trưởng đã bị chuyển giá đầu vào. Do đó, lợi nhuận từ con số này là vô cùng thấp. Dù có thu 20% thuế thu nhập trên con số đó cũng không đáng là bao, thậm chí bằng 0 khi bị báo cáo lỗ. 80% còn lại được doanh nghiệp FDI chuyển về chính quốc. Số 20% thu được từ đây cùng các khoản thu khác phải đang gồng gánh cho gần 70% chi thường xuyên của ngân sách, con số ít ỏi còn lại không đủ chi cho đầu tư và trả nợ.
“Câu chuyện nền kinh tế đang vướng vào bẫy thu nhập trung bình và sẽ còn bị giữ chặt trong một thời gian dài. Nguyên nhân chính xuất phát từ đây và nó cũng lý giải vì sao nền kinh tế tăng trưởng nhưng thu nhập quốc gia và hiệu quả mang lại cho nền kinh tế không cao,” đại biểu Nhân nói.
Theo đại biểu, một trong những mục tiêu thu hút đầu tư là nhằm hấp thu và nhận chuyển giao công nghệ, nhưng theo thống kê, 80% Doanh nghiệp FDI sử dụng công nghệ trung bình của thế giới, 14% ở mức thấp và lạc hậu, chỉ có 5-6% là công nghệ cao. Tuy mang tiếng là công nghệ cao nhưng thực chất các công đoạn thực hiện tại Việt Nam đa phần là khâu lắp ráp. Do đó, câu chuyện Việt Nam từ vị trí thứ 57 trên toàn cầu về tiêu chí hiệu quả về chuyển giao công nghệ tụt xuống vị trí 103 năm 2014 (giảm 46 bậc sau 5 năm), thấp hơn nhiều so với Malaysia (thứ 13), Thái Lan (36), Indonesia (39), Campuchia (44) là điều không quá ngạc nhiên.
Nhìn lại chính sách Nhà nước ưu đãi đặc thù cho khối doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, bao gồm miễn giảm thuế có thời hạn, cho phép chuyển lỗ, miễn đánh thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài, hoàn thuế cho lợi nhuân tái đầu tư, đại biểu đưa ra một thực tế ngược lại “chúng ta lại cứng nhắc, khắt khe với chính người nhà của mình, người luôn đồng cam cộng khổ và có nhiều đóng góp cho kinh tế.”
Đó là câu chuyện của Tập đoàn Viettel “vỡ mộng” vì bị Bộ Tài chính thẳng thừng “bác” việc xin ưu đãi thuế như Samsung Việt Nam, hay khoản đầu tư 500 tỷ đồng để phát triển khoa học công nghệ của Gốm sứ Minh Long không được hỗ trợ chỉ vì thiếu vài thủ tục hành chính – “những ví dụ cho thấy việc gánh vác vai trò là động lực chính cho nền kinh tế còn khó khăn biết chừng nào.”
Vừa bị thất thu thuế, công nghệ lạc hậu, cạn kiệt tài nguyên, nhân công rẻ, thiếu công bằng trong ưu đãi đầu tư và cuối cùng là hệ lụy về môi trường, liệu những điều này có công bằng cho đất nước và người dân? Đã đến lúc phải bình tâm suy xét trước khi quá muộn, đại biểu Nhân đặt vấn đề.
Tạo thay đổi về cả lượng và chất
Từ nhìn nhận những tồn tại của nội tại nền kinh tế, các đại biểu tán thành với các giải pháp Chính phủ đề ra và cho rằng không thu hút đầu tư bằng mọi giá mà phải có chọn lọc, lựa chọn các lĩnh vực, các ngành có công nghệ hiện đại, thân thiện với môi trường, có sẵn chuỗi liên kết, sẵn sàng kết nối với doanh nghiệp Việt Nam, đồng thời cần có cam kết lộ trình chuyển giao công nghệ và tỷ lệ nội địa hóa. Trên hết, ưu tiên các lĩnh vực phù hợp với mục tiêu đề án cơ cấu lại nền kinh tế. Về phía nội lực, không có cách nào khác là phải sẵn sàng cho cuộc đua này.
“Nếu không có một định hướng rõ ràng, cho dù có 1 triệu doanh nghiệp theo Nghị quyết 35 thì chỉ có ý nghĩa cho sự thay đổi về lượng, thiếu bền vững về chất, bảo đảm cho quá trình tăng trưởng,” đại biểu Phạm Trọng Nhân cảnh báo.
Theo các đại biểu, Nghị quyết Trung ương 5, khóa XII về phát triển kinh tế tư nhân trở thành động lực quan trọng của nền kinh tế, cùng những chỉ đạo quyết liệt, cam kết kiến tạo môi trường kinh doanh công bằng của người đứng đầu Chính phủ đã thổi luồng sinh khí mạnh mẽ vào môi trường đầu tư kinh doanh. Sự quyết tâm của cộng đồng doanh nhân trẻ, sự quyết tâm đồng hành của Chính phủ qua việc công bố “sách trắng,” tổ chức Diễn đàn kinh tế tư nhân lần 2, và sự ra mắt của Ban Nghiên cứu phát triển kinh tế tư nhân thuộc Hội đồng tư vấn cải cách thủ tục hành chính của Chính phủ là minh chứng hùng hồn nhất cho những cam kết và quyết tâm này.
Điều còn lại là làm sao luồng sinh khí liên tục bền vững và lan tỏa, tạo điều kiện nuôi dưỡng để khu vực kinh tế tư nhân phát triển lớn mạnh và trở thành nguồn lực chủ yếu cho đất nước trong quá trình tăng trưởng. Đây là điều kiện cơ bản nhất của hoạt động kiến tạo - điều mà Chính phủ đang từng ngày cam kết với doanh nghiệp và người dân.
“Liệu chúng ta có thể rời vai những gã khổng lồ và tự đứng trên đôi chân của mình hay không là câu hỏi lớn mà tất cả chúng ta có trách nhiệm trả lời,” đại biểu Nhân nhận định.
Đại biểu Hoàng Quang Hàm (Phú Thọ) đề nghị Chính phủ cải cách chính sách thu, thực hiện nghiêm chủ trương giảm biên chế, giao dự toán theo đúng biên chế được giao. Đẩy nhanh cơ chế tự chủ cho các đơn vị sự nghiệp. Đặc biệt cân nhắc khoán chi không thường xuyên, mua sắm sửa chữa lớn cho các đơn vị có nguồn thu lớn đã tự chủ được kinh phí. Thực hiện tăng thu giảm chi, ưu tiên giảm bội chi trả nợ. Kiểm soát chặt chẽ việc ký kết quản lý và sử dụng vốn vay ODA.
Theo đại biểu Hoàng Quang Hàm, cần sắp xếp lại kế hoạch đầu tư công 2018 để dành nguồn triển khai hai dự án quan trọng quốc gia. Bố trí thu hồi tối thiểu 3% nợ đọng xây dựng cơ bản để đảm bảo năm 2030 trả hết nợ đọng xây dựng cơ bản và thu hồi đối ứng.
Đại biểu Nguyễn Bắc Việt (Ninh Thuận) đề nghị Chính phủ tập trung chỉ đạo, thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, làm tốt công tác dân vận, thực hiện tốt tư tưởng dân vận Bác Hồ đã chỉ ra: trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân, có trách nhiệm với dân. Đừng nói “đối thoại với dân” vì nếu nói như vậy là làm chưa tốt công tác dân vận với dân nên mới phải đối thoại; làm sao làm thật tốt công tác dân vận, đồng thuận với dân để dân đồng cảm với ta, đại biểu nói.
Ông mong muốn cơ quan truyền thông góp phần để cho nhân dân thật sự tin tưởng vào con đường mục tiêu, lý tưởng, báo chí nên có chuyên mục “nhận diện thông tin xấu độc”./.
Đại biểu Quốc hội tỉnh Bình Dương Phạm Trọng Nhân phát biếu ý kiến. (Ảnh: Doãn Tấn/TTXVN) |
Tăng trưởng đang có bất hợp lý
Nhìn về bức tranh kinh tế-xã hội những tháng đầu năm và dự báo cả năm 2017 với những điểm sáng nổi bật, dự kiến sẽ đạt và vượt 13 chỉ tiêu đề ra, các đại biểu Nguyễn Đắc Quỳnh (Sơn La), Tống Thanh Bình (Lai Châu), Nguyễn Thanh Hải (Tiền Giang)… đánh giá cao quyết tâm trong lãnh đạo, điều hành của Quốc hội, của Chính phủ, của cả hệ thống chính trị và nhân dân cả nước, quyết tâm đưa Nghị quyết Đại hội XII của Đảng vào cuộc sống.
Tuy nhiên, vẫn còn không ít ý kiến băn khoăn khi tăng trưởng đang có những bất hợp lý, trái với logic thông thường, GDP “rơi tự do” trong những tháng đầu năm và tăng tốc “thần kỳ” những tháng cuối năm. Trong điều kiện nguồn lực hạn hẹp, phần lớn là tiền vay nhưng phân bổ vốn chi đầu tư phát triển dàn trải, các ưu tiên trong mục tiêu phát triển cơ cấu lại nền kinh tế bố trí chậm và không đủ vốn. Ngân sách trung ương hạn hẹp, khó khăn trong bố trí cho các công trình dự án quan trọng.
Nhìn về các bất cập, đại biểu Hoàng Quang Hàm (Phú Thọ) cho biết, kỳ họp này sẽ thông qua báo cáo khả thi của Dự án Cảng hàng không quốc tế Long Thành, chủ trương đầu tư cao tốc Bắc Nam nhưng không bố trí vốn cho kế hoạch năm 2018, không để dành vốn năm 2018, để chờ quyết định của Quốc hội sẽ phân bổ sau nên không có nguồn tiền để triển khai các dự án này trong năm tới. Cùng với đó là hai chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới và giảm nghèo bền vững, trong 3 năm Trung ương chỉ bố trí được 36% tổng mức đầu tư tối thiểu được phê duyệt trong 5 năm nên khó đạt được mục tiêu. Với tốc độ bố trí vốn như hiện nay, việc đạt mục tiêu cơ cấu lại nền kinh tế khó đảm bảo, nhiều chính sách phát triển đồng bào dân tộc miền núi bố trí không đủ vốn hoặc không bố trí được vốn.
Bên cạnh đó, ngân sách Trung ương hạn hẹp, năm 2015-2016 đều hụt thu, khó khăn trong bố trí cho các công trình dự án quan trọng nhưng hỗ trợ đầu tư cho địa phương dàn trải, vượt quy định của Luật Ngân sách nhà nước, theo quy định là không quá 30% nhưng dự toán năm 2018 bố trí tới 46,29%. Các vấn đề trên Chính phủ cần nhìn nhận nghiêm túc có giải pháp khắc phục nếu muốn đạt các mục tiêu phát triển.
Đại biểu Hoàng Quang Hàm đã chỉ ra thực trạng bội chi cao, nợ công sát trần, thu ngân sách dự báo không đạt kế hoạch trung hạn nhưng kỷ luật tài khóa chưa nghiêm. Nợ công dự báo đến 2020 khoảng 4,2 triệu tỷ đồng, trả lãi vay hàng năm chiếm khoảng 7-8% tổng chi ngân sách nhà nước, bình quân 1 năm trả lại hơn 100.000 tỷ đồng, xấp xỉ nửa số tiền bán vốn nhà nước trong 5 năm. Khả năng trả nợ rất khó khăn, ngân sách Trung ương nhiều năm không có thặng dư để trả nợ mà phải vay đảo nợ làm quy mô nợ tăng nhanh, nợ chồng lên nợ. Dự báo đến năm 2020 vẫn không khắc phục được, nguồn trả nợ vẫn từ nguồn vay mới và lên tới 252 ngàn tỷ đồng.
Nỗi lo âm ỉ giữa đầu tư nước ngoài và tăng trưởng
Đại biểu Phạm Trọng Nhân (Bình Dương) băn khoăn với nỗi lo về đầu tư nước ngoài (FDI) khi trong những ngày qua, thông tin về kết quả tăng trưởng của nền kinh tế mà báo cáo Chính phủ trình bày gây ngạc nhiên cho cộng đồng, đặc biệt là cộng đồng doanh nghiệp trong nước vốn vẫn đang cố tìm những hướng đi cho mình. Con số hơn 25 tỷ USD vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vượt xa kỳ vọng, tăng 34,3% và vốn giải ngân cũng bất ngờ tăng mạnh, vượt 13,4% so với cùng kỳ.
“Đây được cho là nguyên nhân góp phần vực dậy tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế. Thế nhưng sau cơn địa chấn về thu hút FDI lại là nỗi lo âm ỉ của không ít nhà quản lý, các chuyên gia về câu chuyện giữa nhà đầu tư, giữa đầu tư nước ngoài và tăng trưởng. Một khi hoàn thành các chỉ tiêu quan trọng, đạt nhiều kỷ lục trong tăng trưởng nhưng hiệu quả nội tại mang lại cho nền kinh tế và đời sống người dân chưa đáng là bao,” đại biểu Nhân lo ngại.
Theo đại biểu, đột ngột giảm rồi đột ngột tăng GDP của cả quốc gia chỉ vì biến động sản phẩm của một vài doanh nghiệp FDI là rất đáng lo ngại cho nền kinh tế. FDI bổ sung nguồn lực quan trọng cho tăng trưởng, sau 25 năm, khu vực này đã đóng góp cho GDP từ 2% (1992) lên 20% (2016) và giải quyết việc làm cho hơn 2 triệu lao động, góp phần nâng thu nhập bình quân đầu người hơn 2.000 USD. Tuy nhiên, dù chiếm 25% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, hơn 70% tổng kim ngạch xuất khẩu và 50% giá trị sản xuất công nghiệp nhưng khu vực này chỉ đóng góp vào ngân sách 15%-19%, thấp nhất trong 3 khu vực.
Phân tích của đại biểu Phạm Trọng Nhân cho thấy, giai đoạn 2007-2015, cả nước có 50% doanh nghiệp FDI kê khai lỗ, trong đó có nhiều doanh nghiệp thua lỗ liên tục trong nhiều năm liền. Tuy nhiên, điều ngược đời là càng lỗ, doanh nghiệp FDI lại càng mở rộng sản xuất. Thống kê trong 1.000 doanh nghiệp nộp thuế thu nhập doanh nghiệp nhiều nhất Việt Nam năm 2015 được công bố cho thấy một nghịch lý là khối doanh nghiệp FDI xuất hiện nhiều nhất: 46% nhưng tỷ lệ góp vào tổng thuế thu nhập doanh nghiệp của toàn bảng chỉ ở mức 37% và đang có xu hướng giảm dần. Theo ước tính của các chuyên gia Oxfam, mỗi năm Việt Nam thất thu 170 tỷ USD do hoạt động chuyển giá.
Ở góc nhìn khác, đại biểu Phạm Trọng Nhân phân tích chỉ tiêu tăng trưởng tổng hợp từ nhiều yếu tố trong đó có tổng kim ngạch xuất khẩu nhưng con số 70% tổng kim ngạch xuất khẩu FDI giúp Việt Nam tăng trưởng đã bị chuyển giá đầu vào. Do đó, lợi nhuận từ con số này là vô cùng thấp. Dù có thu 20% thuế thu nhập trên con số đó cũng không đáng là bao, thậm chí bằng 0 khi bị báo cáo lỗ. 80% còn lại được doanh nghiệp FDI chuyển về chính quốc. Số 20% thu được từ đây cùng các khoản thu khác phải đang gồng gánh cho gần 70% chi thường xuyên của ngân sách, con số ít ỏi còn lại không đủ chi cho đầu tư và trả nợ.
“Câu chuyện nền kinh tế đang vướng vào bẫy thu nhập trung bình và sẽ còn bị giữ chặt trong một thời gian dài. Nguyên nhân chính xuất phát từ đây và nó cũng lý giải vì sao nền kinh tế tăng trưởng nhưng thu nhập quốc gia và hiệu quả mang lại cho nền kinh tế không cao,” đại biểu Nhân nói.
Theo đại biểu, một trong những mục tiêu thu hút đầu tư là nhằm hấp thu và nhận chuyển giao công nghệ, nhưng theo thống kê, 80% Doanh nghiệp FDI sử dụng công nghệ trung bình của thế giới, 14% ở mức thấp và lạc hậu, chỉ có 5-6% là công nghệ cao. Tuy mang tiếng là công nghệ cao nhưng thực chất các công đoạn thực hiện tại Việt Nam đa phần là khâu lắp ráp. Do đó, câu chuyện Việt Nam từ vị trí thứ 57 trên toàn cầu về tiêu chí hiệu quả về chuyển giao công nghệ tụt xuống vị trí 103 năm 2014 (giảm 46 bậc sau 5 năm), thấp hơn nhiều so với Malaysia (thứ 13), Thái Lan (36), Indonesia (39), Campuchia (44) là điều không quá ngạc nhiên.
Nhìn lại chính sách Nhà nước ưu đãi đặc thù cho khối doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, bao gồm miễn giảm thuế có thời hạn, cho phép chuyển lỗ, miễn đánh thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài, hoàn thuế cho lợi nhuân tái đầu tư, đại biểu đưa ra một thực tế ngược lại “chúng ta lại cứng nhắc, khắt khe với chính người nhà của mình, người luôn đồng cam cộng khổ và có nhiều đóng góp cho kinh tế.”
Đó là câu chuyện của Tập đoàn Viettel “vỡ mộng” vì bị Bộ Tài chính thẳng thừng “bác” việc xin ưu đãi thuế như Samsung Việt Nam, hay khoản đầu tư 500 tỷ đồng để phát triển khoa học công nghệ của Gốm sứ Minh Long không được hỗ trợ chỉ vì thiếu vài thủ tục hành chính – “những ví dụ cho thấy việc gánh vác vai trò là động lực chính cho nền kinh tế còn khó khăn biết chừng nào.”
Vừa bị thất thu thuế, công nghệ lạc hậu, cạn kiệt tài nguyên, nhân công rẻ, thiếu công bằng trong ưu đãi đầu tư và cuối cùng là hệ lụy về môi trường, liệu những điều này có công bằng cho đất nước và người dân? Đã đến lúc phải bình tâm suy xét trước khi quá muộn, đại biểu Nhân đặt vấn đề.
Tạo thay đổi về cả lượng và chất
Từ nhìn nhận những tồn tại của nội tại nền kinh tế, các đại biểu tán thành với các giải pháp Chính phủ đề ra và cho rằng không thu hút đầu tư bằng mọi giá mà phải có chọn lọc, lựa chọn các lĩnh vực, các ngành có công nghệ hiện đại, thân thiện với môi trường, có sẵn chuỗi liên kết, sẵn sàng kết nối với doanh nghiệp Việt Nam, đồng thời cần có cam kết lộ trình chuyển giao công nghệ và tỷ lệ nội địa hóa. Trên hết, ưu tiên các lĩnh vực phù hợp với mục tiêu đề án cơ cấu lại nền kinh tế. Về phía nội lực, không có cách nào khác là phải sẵn sàng cho cuộc đua này.
“Nếu không có một định hướng rõ ràng, cho dù có 1 triệu doanh nghiệp theo Nghị quyết 35 thì chỉ có ý nghĩa cho sự thay đổi về lượng, thiếu bền vững về chất, bảo đảm cho quá trình tăng trưởng,” đại biểu Phạm Trọng Nhân cảnh báo.
Theo các đại biểu, Nghị quyết Trung ương 5, khóa XII về phát triển kinh tế tư nhân trở thành động lực quan trọng của nền kinh tế, cùng những chỉ đạo quyết liệt, cam kết kiến tạo môi trường kinh doanh công bằng của người đứng đầu Chính phủ đã thổi luồng sinh khí mạnh mẽ vào môi trường đầu tư kinh doanh. Sự quyết tâm của cộng đồng doanh nhân trẻ, sự quyết tâm đồng hành của Chính phủ qua việc công bố “sách trắng,” tổ chức Diễn đàn kinh tế tư nhân lần 2, và sự ra mắt của Ban Nghiên cứu phát triển kinh tế tư nhân thuộc Hội đồng tư vấn cải cách thủ tục hành chính của Chính phủ là minh chứng hùng hồn nhất cho những cam kết và quyết tâm này.
Điều còn lại là làm sao luồng sinh khí liên tục bền vững và lan tỏa, tạo điều kiện nuôi dưỡng để khu vực kinh tế tư nhân phát triển lớn mạnh và trở thành nguồn lực chủ yếu cho đất nước trong quá trình tăng trưởng. Đây là điều kiện cơ bản nhất của hoạt động kiến tạo - điều mà Chính phủ đang từng ngày cam kết với doanh nghiệp và người dân.
“Liệu chúng ta có thể rời vai những gã khổng lồ và tự đứng trên đôi chân của mình hay không là câu hỏi lớn mà tất cả chúng ta có trách nhiệm trả lời,” đại biểu Nhân nhận định.
Đại biểu Hoàng Quang Hàm (Phú Thọ) đề nghị Chính phủ cải cách chính sách thu, thực hiện nghiêm chủ trương giảm biên chế, giao dự toán theo đúng biên chế được giao. Đẩy nhanh cơ chế tự chủ cho các đơn vị sự nghiệp. Đặc biệt cân nhắc khoán chi không thường xuyên, mua sắm sửa chữa lớn cho các đơn vị có nguồn thu lớn đã tự chủ được kinh phí. Thực hiện tăng thu giảm chi, ưu tiên giảm bội chi trả nợ. Kiểm soát chặt chẽ việc ký kết quản lý và sử dụng vốn vay ODA.
Theo đại biểu Hoàng Quang Hàm, cần sắp xếp lại kế hoạch đầu tư công 2018 để dành nguồn triển khai hai dự án quan trọng quốc gia. Bố trí thu hồi tối thiểu 3% nợ đọng xây dựng cơ bản để đảm bảo năm 2030 trả hết nợ đọng xây dựng cơ bản và thu hồi đối ứng.
Đại biểu Nguyễn Bắc Việt (Ninh Thuận) đề nghị Chính phủ tập trung chỉ đạo, thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, làm tốt công tác dân vận, thực hiện tốt tư tưởng dân vận Bác Hồ đã chỉ ra: trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân, có trách nhiệm với dân. Đừng nói “đối thoại với dân” vì nếu nói như vậy là làm chưa tốt công tác dân vận với dân nên mới phải đối thoại; làm sao làm thật tốt công tác dân vận, đồng thuận với dân để dân đồng cảm với ta, đại biểu nói.
Ông mong muốn cơ quan truyền thông góp phần để cho nhân dân thật sự tin tưởng vào con đường mục tiêu, lý tưởng, báo chí nên có chuyên mục “nhận diện thông tin xấu độc”./.
(TTXVN/VIETNAM+)