Bệnh hẹp van 2 lá là một trong những căn bệnh về van tim hay gặp. Nhiều người bị hẹp van 2 lá phải lựa chọn sống chung với bệnh do việc phẫu thuật thay van tim tốn nhiều chi phí lại dễ có biến chứng.
Bệnh hẹp van 2 lá là một trong những căn bệnh về van tim hay gặp. Nhiều người bị hẹp van 2 lá phải lựa chọn sống chung với bệnh do việc phẫu thuật thay van tim tốn nhiều chi phí lại dễ có biến chứng.
Tuy nhiên, với kỹ thuật nong hẹp van 2 lá bằng phương pháp tim mạch can thiệp bệnh nhân đã chữa được bệnh mà không cần phải phẫu thuật tim.
* Nguy hiểm của bệnh hẹp van 2 lá
Ông Hoàng Minh Hải ở xã Phú An, huyện Tân Phú, chia sẻ do bị hẹp van 2 lá nên sức khỏe rất yếu. Ông thường xuyên bị khó thở, đặc biệt là vào chiều tối và khi nằm ngủ. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng cuộc sống của ông, giảm khả năng lao động. Tuy nhiên, sau khi được nong van tim bằng phương pháp can thiệp tim mạch tại Bệnh viện đa khoa Thống Nhất, đến nay sức khỏe của ông đã hồi phục và làm việc bình thường.
Bác sĩ Phạm Quang Huy, Trưởng khoa Tim mạch can thiệp Bệnh viện đa khoa Thống Nhất, thực hiện một ca nong hẹp van 2 lá. Ảnh: Đặng Ngọc |
Bác sĩ Phạm Quang Huy, Trưởng khoa Tim mạch can thiệp Bệnh viện đa khoa Thống Nhất, cho biết van 2 lá là van quan trọng của tim, nằm giữa tâm nhĩ trái và tâm thất trái. Hẹp van 2 lá càng nặng, máu từ tâm nhĩ trái xuống tâm thất trái càng khó khăn, gây nhiều hậu quả nghiêm trọng.
Theo đó, khi bị hẹp van 2 lá, lượng máu bơm từ tâm thất trái đi nuôi cơ thể giảm khiến bệnh nhân luôn mệt mỏi, yếu đuối, ảnh hưởng đến sinh hoạt hàng ngày, đặc biệt khi gắng sức. Máu bị ứ lại trong tâm nhĩ trái làm tâm nhĩ trái nở lớn, hoạt động kém hiệu quả, có thể dẫn đến rung nhĩ. Máu ứ lên phổi làm bệnh nhân khó thở khi gắng sức, khó thở kịch phát về đêm, khó thở phải ngồi, ho ra máu, nặng hơn nữa gây phù phổi làm bệnh nhân khó thở dữ dội, tử vong nhanh chóng nếu không được cấp cứu kịp thời.
Ngoài ra, nếu trong tâm nhĩ trái bị nở lớn do ứ máu, huyết khối dễ hình thành. Các cục huyết khối này nếu lọt vào hệ đại tuần hoàn sẽ gây tắc mạch máu tại nhiều nơi trong cơ thể như ở não làm cho bệnh nhân bị đột quỵ liệt nửa người, tại thận làm giảm chức năng thận… Có nhiều nguyên nhân gây hẹp van 2 lá. Ở Việt Nam nói chung và ở Đồng Nai nói riêng, nguyên nhân gây bệnh hẹp van 2 lá chủ yếu là do bệnh thấp tim hay còn gọi là hẹp van 2 lá hậu thấp.
* Phương pháp điều trị hẹp van 2 lá
Bác sĩ Phạm Quang Huy cho biết, hiện nay có nhiều biện pháp điều trị hẹp van 2 lá hậu thấp. Trường hợp điều trị nội khoa như trong ăn uống phải ăn lạt; dùng thuốc lợi tiểu, thuốc chống suy tim, dùng thuốc chống đông khi có rung nhĩ hoặc có huyết khối trong tâm nhĩ trái hoặc hẹp khít van 2 lá kèm tâm nhĩ trái lớn; thuốc phòng ngừa thấp tim, phòng ngừa nhiễm trùng màng trong tim khi làm các thủ thuật có chảy máu. Trường hợp nặng phải phẫu thuật tim để thay van 2 lá. Đây là phẫu thuật lớn, có khả năng xảy ra nhiều biến chứng, gây đau đớn, thời gian hồi phục sức khỏe chậm, chi phí cao.
Bác sĩ Phạm Quang Huy, Trưởng Khoa Tim mạch can thiệp Bệnh viện đa khoa Thống Nhất, cho biết trong thời gian tới trung tâm sẽ tiếp tục phát triển các kỹ thuật chuyên sâu, tiên tiến khác, như: can thiệp qua da các bệnh tim bẩm sinh như thông liên nhĩ, can thiệp qua da hẹp động mạch ngoại biên, phẫu thuật tim với tuần hoàn ngoài cơ thể… Theo đó sẽ phấn đấu đem được ngày càng nhiều các kỹ thuật y tế chuyên sâu, tiên tiến về cho nhân dân trong tỉnh, phục vụ tốt sức khỏe bệnh nhân Đồng Nai, góp phần tích cực phát triển nền y học trong tỉnh, đồng thời góp phần hiệu quả giảm tải cho các bệnh viện tuyến trên. |
Ngày nay với sự tiến bộ của y học, nong van 2 lá bằng bóng qua da là biện pháp chuyên sâu, hiệu quả nhưng lại ít xâm lấn. Tất cả dụng cụ nong van được đưa vào trong tim qua lỗ kim nhỏ ở động mạch đùi. Với kỹ thuật nong van 2 lá bằng bóng qua da giúp bệnh nhân không phải trải qua phẫu thuật tim, mau sớm hồi phục và sớm được xuất viện trở về với gia đình và công việc. Tuy nhiên, phương pháp này được chỉ định cho những bệnh nhân có đủ điều kiện sau: diện tích mở van 2 lá <1,5 cm2; không có huyết khối ở tâm nhĩ trái, tiểu nhĩ trái... Do đó, bệnh nhân cần thường xuyên khám và theo dõi tình trạng bệnh để được bác sĩ tư vấn kịp thời, tránh để bệnh nặng rất khó can thiệp.
Có thể nói rằng, việc triển khai thành công kỹ thuật tiên tiến này đã mở ra cơ hội cho những bệnh nhân khác được thừa hưởng những thành quả của y học chuyên sâu, hiện đại ngay tại tỉnh nhà, không phải lên tuyến trên xa và tốn kém, đồng thời giảm tải cho các bệnh viện tuyến trên.
Đặng Ngọc (ghi)